NHÌN LẠI HAI XU
HƯỚNG TRONG PHONG TRÀO DUY TÂN
Ở VIỆT NAM ĐẦU
TK XX – KINH NGHIỆM CHO HIỆN TẠI
Nguyễn San Hà[1]
I.ĐẶT VẤN ĐỀ
Trước
sự thắng thế của thế lực Chủ nghĩa tư bản vào cuối thế kỷ XIX, các quốc gia ở
châu Á lần lượt trở thành các nước thuộc địa, nữa thuộc địa trước lực lượng thực
dân Phương Tây hùng mạnh. Sự thất bại của các quốc gia châu Á vào cuối thế kỷ
XIX phản ánh sự lạc hậu và yếu kém của một thiết chế chính trị, một phương thức
sản xuất được gọi là “phong kiến”. Trật
tự quan hệ giữa các nước theo quan niệm “Trung
Hoa là trung tâm của đất trời” đã bị phá vỡ, con người ở các quốc gia bị đô
hộ nhận ra rằng tri thức phương Tây mới là thứ tạo ra sức mạnh làm họ thất bại.
Xuất phát từ suy nghĩ trên, một lực lượng nho sĩ cấp tiến đã vấn thân vào con
đường Duy tân với mong muốn cứu nhân dân trong nước thoát khỏi cảnh u tối và nô
lệ. Nhưng con đường Duy tân đó tại Việt
Nam không diễn ra một cách dễ dàng mà luôn phải bị thử thách của thời cuộc. Trong
khuôn khổ của bài viết, tác giả mong muốn khắc họa lại sự phong phú của hai
xung hướng trong phong trào Duy tân và chỉ ra những kinh nghiệm cho hiện tại có
thể tiếp tục học tập để không ngừng đưa đất nước đi lên theo kịp bước tiến của
thời đại.
II.NỘI DUNG
1.Tại sao phải tiến hành Duy Tân đất nước ?
Sự
thất bại của triều Nguyễn trong cuộc kháng chiến chống Pháp cuối thế kỷ XIX đã
cho thấy những giá trị tư tưởng và lối sống vốn có của dân tộc Việt Nam suốt
hơn một nghìn năm dưới chế độ phong kiến đã không còn phù hợp với thời đại, thể
hiện qua sự khủng hoảng của quan hệ Nho giáo, Nho học và Nho sĩ. Ý thức hệ Nho
giáo vốn đặt nặng những trật tự lỗi thời cổ hữu như: trọng nông khinh thương,
trọng vương khinh bá...trở thành rào cản cho sự phát triển. Trí thức Nho học
thì đặt nặng sự “lào chương trích cú”,
đặt nặng thi văn cổ phủ mà thiếu tính khoa học dễ làm cho con người đi đến chỗ
bế tắc trước các câu hỏi của thời đại. Hai thứ trên đè nặng lên những người Nho
sĩ vốn lấy nghiệp “bút nghiêng” là hướng
tiến, ngày càng sa sút trước thời cuộc. Từ khi Pháp thiết lập nền “bảo hộ” lần hồi họ sống trong nghèo khổ
và tự đóng khung mình trong cái tư duy “vạn
ban giai hạ phẩm, duy hữu đọc thư cao”[2]
làm cho họ xa rời thực tế rồi trở nên “tài
bất đắc trí”. Thực tế trên, tạo ra một viễn cảnh cho các trí thức phong kiến
đương thời một câu hỏi lớn: Phải làm gì để cứu dân tộc ? trong khi sở học
vốn có thì không thể dùng được.
Thế
rồi các sách “Tân thư” bằng tiếng Hán
đã được đưa vào Việt Nam, loại sách này làm các nhà trí thức phong kiến “vỡ
bùng” đầu óc ra khi thấy rằng: tri thức khoa học và lý luận của Phương Tây thật
sự là hữu dụng cho việc cải thiện tình hình tại xứ thuộc địa Đông Dương (dĩ
nhiên có cả Việt Nam), đặc biệt hơn là nó đã có sự ví dụ ngày càng tinh tế tại
Nhật Bản, Trung Quốc, Xiêm... các khái niệm hiện đại như: Quốc dân, dân chủ dân
quyền, tự trị, kinh bang tế thế... cứ lần lượt tràn vào đầu các nhà nho cấp tiến
làm cho họ tươi trẻ hơn và quyết liệt hơn trong việc cổ súy cho con đường Duy
tân để thay đổi căn bản hơn quốc dân, dân tộc. Họ hy vọng một ngày nào đó, họ sẽ
giành được những thứ quyền hành mới mà dưới thời kỳ các ông vua bà hoàng chưa từng
được nhắc đến.
Đặc
điểm lớn của tình hình Việt Nam trong vấn đề ra đời phong trào Duy tân cuối thế
kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX chỉnh là ở chỗ các trí thức phong kiến cấp tiến phải từ
mài mò, vừa học, vừa vận động, vừa thực hành và vừa đấu tranh. Trong đó sự đấu
tranh với lối tư duy cũ, quan niệm lạc hậu so với sự đàn áp, ngăn cản của chính
quyền thực dân bảo hộ Pháp trong nước điều
khó khăn và nguy hiểm như nhau. Đó là chưa kể đến việc các nhà Duy tân còn gặp
phải rào cản về ngôn ngữ[3]
và sự thiếu thực tế trong điều kiện Việt Nam, cũng ít nhiều làm lệch đi những
giá trị vốn có của hệ thống tri thức khoa học và lý luận phương Tây khi được vận
động trong nước.
Tuy
vậy, các tri thức khoa học của phương Tây đã thực sự giúp cho các nhà Duy tân
trả lời được vấn đề “Tại sao Việt Nam
thua Pháp ?”; “Tại sao Nhật Bản không bị nô dịch ?”... để từ đó hình thành
nên phong trào Duy tân phát triển mạnh nhất vào đầu thế kỷ XX. Cũng xuất phát từ
những đặc điểm hình thành phong trào Duy tân tại Việt Nam, nên từ rất sớm đã
hình thành nên hai xu hướng Duy tân khác nhau, những đều do những nhà yêu nước
lỗi lạc một thời dẫn dắt.
2. Tại sao “Ỷ Pháp cầu tiến bộ” trong tư tưởng của cụ
Phan Châu Trinh lại là Duy tân ?
Cụ
Phan Châu Trinh vốn là một nhà trí thức phong kiến điển hình cho lực lượng tham
gia vào trường quy, làm quan cho triều đình nhà Nguyễn vốn chỉ còn hư danh. Nên
ông đã từng nhận xét về bản thân mình rằng: “Vì
tôi từ nhỏ đến lớn, từ khi vào học cho đến khi thi đậu, làm quan, không có ai
biết mình, mà cũng không có lúc nào đắc chí. Ấy là nhỏ ở nhà, nói ra những lời
bi thời mẫn thế, anh em cho là ngu cuồng, hơi lớn đi học làm văn bi thời mẫn thế,
thầy học cho là ngu cuồng. Đến khi thi đậu ra làm quan, thường thốt ra những lời
than bi thời mẫn thế, quan bộ trưởng và các bạn làm quan cho là cuồng ngu hoặc
hỏi cớ sao lại ngu cuồng như thế, mà tôi cũng không tự biết, chỉ cười và vui vẻ
nhận lấy”[4]. Rồi
đến khi ông đọc được các sách tân văn, tân thư thì đã cho rằng: “Đây chính là thời hữu dụng của kẻ ngu cuồng.
Ta đem cái chí cuồng ngu của ta, thi hành kiến thức ngu cuồng của ta, chưa hẳn
không ít có ích cho quốc dân”[5].
Cũng
chính từ lúc được tiếp thu tân thư, tân văn cụ Phan Châu Trinh đã hình thành
con đường Duy tân và kiên trì bảo vệ quan điểm của mình là chưa đặt việc khôi
phục chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc thành nhiệm vụ trước mắt mặc dù ông
đau xót trước cảnh người Pháp ngược đãi người Việt Nam, mặc dù ông than cùng
thân sĩ : “Trường thử bách niên cam thóa
mạ; Bất tri hà nhật xuất lao lưng?” (Nghĩa: Cứ cam chịu mãi người mắng nhiếc;
Biết tới ngày nào thoát cũi lòng?). Chẳng những thế, ông còn phản đối việc dùng
vũ lực (tức bạo động) để giành lại độc lập quốc gia bởi vì, theo ông, chủ
trương trên tuy được nhiều người hửng ứng nhưng khó có thể giành được kết quả
như mọi người mong muốn. Vì điều đó chỉ làm tiêu tốn thêm xương máu của dân mà
thôi, bởi cốt yếu là quốc dân ta còn nhiều hạn chế. Dùng vũ lực khi còn đang yếu
tất phải cậy nhờ ngoại viện (cầu cứu nước ngoài), điều đó thật là sai lầm nếu
có thành công đi chăng nữa cũng chỉ là cảnh
thay thầy đổi chủ. Vì vậy một phương châm hành động của ông là “Bất bạo động, bạo động tắc tử, bất vọng ngoại,
vọng ngoại giả ngu!”. Điểm sâu sắc trong lý luận cách mạng của cụ Phan Châu
Trinh chính là ở chỗ chỉ ra được các điều hữu lậu trong tư tưởng và tập quán ứng
xử của người Việt, đó chính là: “Dân tộc nước
Nam, trên lịch sử, có hai đặc tính cực đoan phản đối nhau: một là đặc tính bài
ngoại và ỷ ngoại; hai là đặc tính tự tôn và tự ti. Hai đặc tính đó có sẵn ở quốc
dân, trong não mọi người. Mỗi cái nhân thời thế, địa vị của nó mà phát hiện, rồi
trong khi phát hiện lại điều chỉnh đi tới cực đoan, lại khi đã tới cực đoan, mỗi
cái đều giữ lý do, chuyên cậy vào tập quán, lợi hại đều bị che lấp không thấy”[6].
Ông chỉ ra đó chính là chỗ dựa cho sự ủng hộ chủ trương dùng vũ lực - bạo động.
Nên cụ Phan Châu Trinh cho rằng nhiệm vụ cấp bách bấy giờ phải là :
-
Chấn dân khí: thức tỉnh tinh thần tự lực tự cường trong dân, làm cho mọi người
giác ngộ được quyền lợi của mình, giải thoát được nộc độc chuyên chế, một chứng
bệnh bất trị tồn tại lâu đời trong xã hội.
-
Khai dân trí: mở mang trí não cho dân, bỏ lối học tầm chương trích cú chạy theo
khoa cử cũ, bài trừ hủ tục, xa hoa phí phạm tiền của, mở trường học mới dạy chữ
Quốc ngữ, kiến thức khoa học thực dụng, tuyên truyền lối sông tiết kiệm, văn
minh…
-
Hậu dân sinh: chăm lo đời sống cho dân, bằng cách phát triển kinh tế của đất nước,
chỉ con đường làm ăn cho dân như khẩn hoang làm vườn, lập hội buôn, sản xuất
hàng nội hóa…
Để
thực hiện những nhiệm vụ chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh, trong điều
kiện sự thống trị của Pháp vẫn được thừa nhận, chính quyền thuộc địa vẫn tồn tại,
tất nhiên là Phan Chu Trinh phải yêu cầu chính quyền thuộc địa sửa đổi chính
sách cai trị, làm cho nó có thể giúp nhân dân Việt Nam từng bước tiến đến văn
minh. “Ỷ Pháp cầu tiến bộ” phương
châm ấy của Phan Chu Trinh hoàn toàn không có nghĩa là một sự thỏa hiệp vô điều
kiện, sự chấp nhận một chính sách cai trị chỉ có lợi riêng cho nước Pháp và làm
suy yếu Việt Nam. Tuy ‘ỷ Pháp cầu tiến bộ”,
Phan Chu Trinh không thụ động ngồi chờ lòng hảo tâm của nhà cầm quyền. Ông đề
cao phương châm “Tự lực khai hóa”, tức
là vận động những người cùng chí hướng với mình, đi vào dân chúng dùng lối thuyết
khẩu vô băng - diễn thuyết – thức tỉnh dân chúng, tuyên truyền tư tưởng dân quyền,
vận động mở trường học theo lối mới, lập hội buôn, hội nông…
Ngẫm
lại các thư từ của cụ Phan Châu Trinh gửi cho chính quyền thực dân Pháp ta thấy
rõ được quan điểm trên như:
Về
Báo chí và diễn thuyết (bản 2) cụ thẳng thắng góp ý: “tôi xin Ngài cho phép ra các tờ báo làm kim chỉ nam hướng dẫn cho dân
chúng lớp dưới. Bằng cách ấy, các từng lớp thượng lưu cũng được mở rộng tầm
nghe, thấy, điều đó sẽ giúp các quan chức cai trị xứ này dễ dàng hơn” và “Nếu được như vậy những tờ báo này sẽ ấn định
phương hướng cho sự giáo dục học đường và có thể sửa chữa phong tục, tập quán của
người An Nam” từ đó “Trẻ em sẽ có nhà
trường để học, người có học sẽ có sách báo để đọc; còm đám người dốt nát thì hiện
chưa có cách gì (trong lúc này) để mở mang trí tuệ cho họ. Cho đến nay, đám người
này thường hay gây lộn xôn và luôn luôn bị lừa gạt, cho nên, tôi xin cho lập
các trụ sở diễn thuyết để dạy cho họ con đường ngay thẳng và cách thức trực tiếp
cư xử cũng như sự hiểu biết điều hay, dở. Làm như thế cũng là tạo sự thuận lợi
cho việc cai trị xứ sở”[7].
Về
các điều luật và việc thành lập tòa án bổ sung (bản 3) cụ nêu lên rằng: “Luật pháp là việc hệ trọng hàng đầu trong một
xứ và nếu không thấm nhuần tinh thần công lý thì những tổn hại sẽ lại càng
tăng. Trí khôn của dân chúng mỗi ngày mỗi phát triển thêm, mà cứ áp dụng luật
cũ không thích hợp, đó là cái tệ nghiêm trọng nhất” và “Cách thức cai trị mỗi ngày mỗi đổi khác, nếu cứ áp dụng luật cũ là
không theo kịp thời thế”, “dùng luật
cũ thì có khác nào chắp thêm cánh cho hổ, và dân chúng không còn sức kham nổi
tình trạng đó”. Rồi cụ Phan “đề nghị Ngài
Bộ trưởng, vốn đã biểu lộ ý định tiến hành những cải cách ở Đông Dương, cho cải
tổ lại luật pháp, lập các tòa án bổ sung và phân quyền; các quan chức ngạch
hành chính lo việc cai trị, quan chức ngạch tư pháp coi xử việc pháp luật. Làm
như vậy, những thiệt hại mà dân chúng phải gánh chịu sẽ ngày càng bớt đi”[8].
Về
việc đóng cửa các trường học (bản 5) thời chống thuế ở Trung Kỳ, cụ Phan kiến
nghị: “trả lại cho dân chúng các trường học
do họ đã lập nên và cho phép họ lập thêm các trường khác, để mỗi làng có một
trường (vì mỗi tổng chỉ có một trường thì không đủ)”[9]
và trong một cuộc phỏng vấn khác cụ nêu rõ lập trường rằng: “Nhưng người bản xứ là những kẻ đầu tiên đòi
hỏi phải có nền giáo dục hiện đại và chuyên sâu. Nếu có được những trường
chuyên nghiệp như châu Âu, và nếu muốn trở thành quan thì không những phải tốt
nghiệp ở các trường đó mà còn phải học đầy đủ các môn học cần thiết thì số viên
chức bản xử sẽ có học thức hơn và ít hơn. Người ta sẽ không còn thấy ở Đông
Dương số người bản xứ chỉ bằng mà không có chỗ làm, và đó là những mầm móng của
sự bất mãn”[10]
Bao
nhiêu đó cũng đủ để thấy được một nhà yêu nước nồng nhiệt, kiên trì và thẳng thắng
bảo vệ quan điểm của mình về con đường “Ỷ
Pháp cầu tiến bộ” của cụ Phan Châu Trinh. Dù có thể nào thì con người này vẫn
là một điểm sáng cho việc đấu tranh ôn hòa, nhưng kiên định không sợ cái chết,
vì theo ông con đường này nếu có bại thì chết cũng chỉ một mình mình thôi! Có lẽ
thể mà tại sao ngay đầu thế kỷ XX những việc làm của Phan Châu Trinh đã lan
truyền đến cả tổ chức Nhân quyền của Pháp tiến hành can thiệp để giúp ông thoát
được bản án của quan lại Nam triều.
3. Tại sao bạo động chống Pháp cũng của cụ Phan Bội
Châu cũng nằm trong phong trào Duy Tân ?
Cụ
Phan Bội Châu (1867-1940) hiệu là Sào Nam cũng vốn là người theo đường khoa cử
của trí thức phong kiến, sẵn tài nên chỉ mới 16 tuổi đã đỗ đầu xứ (được gọi là
Đầu xứ San). Ông vốn rất muốn sớm tham gia chống Pháp cùng với các sĩ phu đương
thời, nhưng vì cảnh gia đình nên đành nuốt hận mà bày tỏ nổi lòng trong tác phẩm
“Bình Tây thu Bắc”. Cũng có lúc ông từng
đồng mưu với các hào kiệt như như Phan Bá Ngọc, Vương Thúc Quý, Trần Hải, Hà
Văn Mỹ... có hơn 20 người đánh cướp thành Nghệ An vào ngày 14/7/1901 (lễ Quốc
khánh Pháp), việc bại lộ, nghiệp lớn không thành, ông nhờ sự giúp đỡ của Tổng đốc
Nghệ An lúc đó là Đào Tấn mới khỏi họa duyệt thân.
Nhưng
cũng từ việc thất bại ở Nghệ An, cụ Phan đã về cùng cụ Đặng Thái Thân mưu bàn 3
việc lớn như:
Thứ
nhất, “Liên kết với dư đảng cũ Cần Vương
còn lưu lại và các trai tráng ở chốn sơn lâm, xướng khởi nghĩa quân, mục đích
chuyên ở nơi đánh giặc, mà thủ đoạn thứ nhất bằng cách bạo động.
Thứ
hai, Ủng phù một vị minh chủ kén chọn
trong hoàng thân lập ra, âm kết với những hữu học ở đương triều làm người nội
viện, với cử hợp cả trung nghĩa Nam Bắc tính cách đòng thời đại cử.
Thứ
ba, Y hai kế hoạch trên mà cầu có ngoại
viện. Muốn có ngoại viện ắt phải có một phen xuất dương cầu ngoại viện[11]
Qua
đó ta thấy được con đường cứu nước của cụ Phan Bội Châu chủ yếu nổi lên các vấn
đề như: lực lượng làm cách mạng không gì ngoài những người tham gia Cần Vương
sau khi thất bại còn lại, cốt vì họ là lực lượng thể hiện tinh thần yêu nước
lúc bấy giờ, phần là họ có thể đi theo con đường bạo lực cách mạng – vũ trang của
cụ. Kế đến là việc trong cậy vào sự ủng hộ của một minh quân thuộc hoàng gia vì
nghĩa xướng việc chống Pháp và liên kết chặt chẽ với sự ủng hộ của một thế lực
ngoại viện (nước ngoài) để vũ trang đuổi Pháp. Tất cả chủ trương trên đã thực sự
được thực hành khi cụ Phan Bội Châu cùng với các đồng chí thành lập một đảng bí
mật (sau gọi là Hội Duy tân) và thông
qua phương lược cứu nước (1904)[12],
suy tôn ngài Kỳ Ngoại hầu Cường Để làm minh chủ. Qua đó có thể thấy cụ Phan Bội
Châu đã tiếp thu các tri thức khoa học và lý luận của phương Tây qua tân thư,
tân văn và xác định chiến lược của Duy
tân hội là dùng vũ trang bạo lực giành chính quyền, sau khi độc lập hướng đến
thể chế quân chủ lập hiến[13].
Do
chủ trương ngoại viện nên ông kêu gọi sự xuất dương cầu viện, điểm nổi bật ở cụ
Phan Bội Châu là ông đã nhận ra cái thế yếu của nước Trung Hoa vào cuối thế kỷ
XIX - đầu thế kỷ XX. Nên khác với các văn thân sĩ phu Cần Vương vẫn còn nuôi ảo
vọng cạnh nhờ “thiên triền”, ông lại hướng đến nước Nhật vốn “đồng chủng, đồng văn” xong đã Minh Trị
duy tân thành công, làm nức lòng các nho sĩ cấp tiến đang tìm đường cậy nhờ uy
thế mà giành lấy độc lập. Thế nhưng khi
tiến hành xuất dương “cầu viện” và đặc
biệt sau những lần tiếp xúc với các nhân vật chủ chốt của lực lượng Duy tân ở
Trung Quốc và Nhật Bản như: Lương Khải Siêu, Okuma Shigenoba và thủ tướng Nhật
Inukai Tsuyoshi thì kế sách cầu viện Nhật giúp Việt Nam giành độc lập coi như
tan vỡ. Nhưng cái tài của cụ Phan Bội Châu là tinh thần không chịu khuất phục
hoàng cảnh, khi thấy được khả năng cầu
viện không thể thực hiện thì cụ lập tức chuyển hướng sang “cầu học” với hy vọng những
du học sinh sau khi Đông Du học tập sẽ về giành lại được độc lập như người Nhật
đã thử nghiệm.
Các
tác phẩm như: Khuyết quốc dân tư trợ du học văn (1905), Hải ngoại huyết thư và
Tân Việt Nam (1906) do cụ Phan viết chỉ với một mục tiêu cốt yếu là kêu gọi
toàn thể quốc dân trên ý thức hệ mới hợp lực, đoàn kết lương giáo, các hạng thứ
dân cùng nhau đứng lên chống Pháp. Ông cũng thông qua đó bước đầu thể hiện cái
nhìn canh tân hơn về phụ nữ khi nhận định rằng: “trong một nước nếu không có phụ nữ yêu nước thì nước ấy sẽ làm đầy tớ
cho người ta thôi”[14].
Bên cạnh việc đề cao liên minh quốc dân trong nước, cụ Phan còn thúc đẩy việc
liên minh quốc tế và minh chứng đầu tiên là lập Hội Đông Á đồng minh và Điền -
Quế - Việt liên minh để tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè Nhật bản tiến bộ.
Đến
1909, khi Nhật – Pháp tư thông với nhau thì chính phủ Nhật Bản ra lệnh trục xuất
tất cả những du học sinh Đông Du cầu học về nước, cụ Phan Bội Châu và Cường Để
cũng phải ngậm đắng nuốt cay mà rời nơi họ vẫn tưởng “đồng chủ đồng văn thì sẽ ra sức tương trợ”. Song con đường cách mạng
của cụ Phan Bội Châu vẫn tiếp tục và nhạy bén trước những vận hội mới của cách
mạng thế giới.
Có
thể thấy, khác với cụ Phan Châu Trinh chủ trương
“ỷ Pháp cầu tiến bộ”; thì cụ Phan Bội Châu cũng mưu cầu một sự tiến bộ
không im lặng mà bạo động, nhưng vẫn là muốn mở mang học thức cho dân Nam, xóa
đi các tư tưởng hữu lậu đã ăn sâu vào tư duy người Việt bằng con đường học tập
văn minh phương Tây thông qua Nhật Bản. Dù hạn chế có thể thấy được xong, cụ
Phan Bội Châu vẫn là một vị “thiên sứ của
cách mạng Việt Nam”, trong việc không ngừng thử sai tìm ra con đường cứu nước.
III.KẾT LUẬN
Qua
việc tìm hiểu nội dung cơ bản của hai xu hướng khác nhau trong phong trào Duy
tân đầu thế kỷ XX của hai nhà trí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu,
tác giả thấy rằng hơn trăm năm quan các hạn chế và bài học kinh nghiệm từ phong
trào này vẫn còn nhiều giá trị mang tính thời sự cần phải tiếp tục nêu lên.
Thứ nhất, Duy tân tức là đổi mới để bắt kịp với xu
thế phát triển của toàn cầu, để đuổi kịp với sự văn minh của các cường quốc. Nên con đường
Duy tân của hai cụ Phan dù có khác nhau về phương pháp, hình thức hoạt động,
song về mặt nội dung thì không có sự thay đổi. Nên cần phải thấy rằng: Tại Việt
Nam trước sự can trở của cả hệ ý thức phong kiến cũ và chính quyền đô hộ Pháp,
bằng những cách khác nhau các nhà Duy tân Việt Nam vẫn phát triển được lý luận
của mình và để lại những di sản đáng nể cho hậu thế học hỏi. Việc làm của các cụ
đã phần nào dọn đường cho những tư tưởng tiến bộ trong tiến trình lịch sử dễ
dàng hơn khi truyền bá vào Việt Nam. Dĩ nhiên đến nay hôm nay, khi khoa học kỹ
thuật và công nghệ không ngừng phát triển như vũ bão, thì yêu cầu người dân phải
nhận thức được cần phải đổi mới và cải thiện những tập tính hữu lậu của một nước
nông nghiệp là một điều cần thiết và phải tiếp tục nghiên cứu.
Thứ hai, Qua nghiên cứu về quá trình hoạt động
cách mạng của hai xu hướng Duy tân tại Việt Nam ta cũng có thể nhận thấy được những kinh nghiệm trong đổi mới như: 1. Giáo dục – văn hóa phải là trận tuyến quyết
liệt để loại bỏ những tư tưởng cổ hữu (khai dân trí, Đông Du cầu học, phát triển
trường Đông Kinh Nghĩa Thục); 2 Kinh
tế là việc phải có sự cải thiện mang tính bước đột phá “học người để làm mạnh
ta” (lập các hội buôn, các công ty Liên Thành, Minh Tân khách sạn, kêu gọi công tác kinh tài); 3. Cố mà tranh đấu vì những điều tiến bộ với
nhà cầm quyền – vì chỉ khi nhận ra được sự tiến bộ thì đổi mới hay cải cách mới
được sự ủng hộ của toàn thể quốc dân (Phan Châu Trinh liên tục viết các thư từ,
và điều trần với chính phủ Pháp). Đây có thể gọi là “3 nên”.
Thứ ba, Kinh nghiệm từ hai cụ Phan và các nho sĩ cấp
tiến trong phong trào Duy tân cũng cho thấy phải thật sự bình tỉnh để đổi mới,
phải thật sự né tránh các hạn chế như: 1. Quá lý tưởng thành công của người rồi áp dụng thiếu sáng tạo ở ta (bộc
lộ ngày sau những thất bại của phong trào Duy tân); 2. Cầu học phải là thực học và đặt nặng tầm nguyên tránh lối để qua trung
gian, thiếu suy xét mà ôm về làm chuyện “nửa nạt nửa mỡ”. Đó có thể xem là
“2 không”.
Vận
dụng tốt “3 nên và 2 không” cùng với
việc nghiên cứu một cách bài bản các kinh nghiệm Duy tân ở nước bạn, có thể là
một công thức vàng cho mội sự canh tân để phát triển của dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Phan
Bội Châu, Phan Bội Châu Toàn tập, tập 2 và 6, NXB Thuận Hóa, 2001.
2.Phan
Châu Trinh, Phan Châu Trinh Toàn tập, tập
2 và 3, NXB Đà Nẵng, 2005.
3.Viện
sử học, Lịch sử Việt Nam tập 7 (1897-1918), NXB KHXH, HN, 2013.
4.Lê
Thị Kinh, Phan Châu Trinh qua những tư liệu mới, tập 1 và 2, NXB Đà Nẵng, 2001
và 2003.
5.Chương
Thâu, Nghiên cứu Phan Bội Châu, NXB CTQG, HN, 2004.
Trích tham luận tại kỷ yếu Hội thảo khoa học: "Tác động của phong trào Duy Tân trong lịch sử và những gợi mở cho công cuộc đổi mới đất nước hiện nay" tr305-313
[1] Giáo viên - Trường THCS Võ Trường
Toản Q1, TP. Hồ Chí Minh.
[2] Ý ám chỉ thái độ: xem các nghề
trong thiên hạ điều là thấp kém, chỉ có người tinh thôn nho học (đọc sách thánh
hiền) mới là nghề cao quý trong xã hội.
[3] Thường các nhà Duy Tân chưa có sự
chuẩn bị tốt về mặt ngoại ngữ, phải thông qua sách dịch của các nhà Duy Tân Nhật
Bản và Trung Quốc bằng tiếng Hán.
[4]Phan Châu Trinh, Phan Châu Trinh
toàn tập, tập 3, NXB Đà Nẵng, 2005, tr 71-72.
[5]Phan Châu Trinh, Phan Châu Trinh
toàn tập, tập 3, NXB Đà Nẵng, 2005, tr 72.
[6] Phan Châu Trinh, Phan Châu Trinh
toàn tập, tập 3, NXB Đà Nẵng, 2005, tr 57-58
[7] Phan Châu Trinh, Phan Châu Trinh
toàn tập, tập 2, NXB Đà Nẵng, 2005, tr 119
[8] Phan Châu Trinh, Phan Châu Trinh
toàn tập, tập 2, NXB Đà Nẵng, 2005, tr 120
[9] Phan Châu Trinh, Phan Châu Trinh
toàn tập, tập 2, NXB Đà Nẵng, 2005, tr 122-123
[10] Phan Châu Trinh, Phan Châu Trinh
toàn tập, tập 2, NXB Đà Nẵng, 2005, tr 126
[11] Phan Bội Châu, Phan Bội Châu
toàn tập, tập 6, NXB Thuận Hóa, Huế, 1990, tr 60.
[12] Viện sử học, Lịch sử Việt Nam tập
7 (1897-1918), NXB KHXH, 2013, HN, tr 254.
[13] Ý này về sau thể hiện cụ thể hơn
trong tác phẩm Việt Nam vong quốc sử khảo (1907) có nêu: “phàm nhân dân nước ta
không cứ sang hèn, giàu nghèo đều có quyền bỏ phiếu bầu cử. Trên vua nên để hay
nên truất, dưới là quan nên thăng hay nên giáng, đều có quyền quyết đoán cả. Những
vua tệ, quan hư không hợp với công đạo thì hội nghị viện, dân ta hỏi nhau, công
nghị được quyền khiển trách và trừng phạt”, trích Phan Bội Châu toàn tập, tập
2, NXB Thuận Hóa, 2001, tr 256.
[14] Thơ văn Đông Kinh Nghĩa thục,
NXB Văn hóa, HN, 1997, tr 127.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét