Thứ Hai, 21 tháng 10, 2013

YẾU TỐ LUÂN THƯỜNG TÁC ĐỘNG ĐẾN TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH GIÁO DỤC CỦA HỒ QUÝ LY



NGUYỄN SAN HÀ[1]
Tóm tắt:
       Hồ Quý Ly được xem là một nhà cải cách lớn trong lịch sử dân tộc. Đặc biệt, nội dung cải cách giáo dục là một điểm nhấn mang tính tích cực và tiến bộ về cách nhìn mới trong tư tưởng luân thường Nho giáo của Hồ QuýLy. Vậy điểm mới và tích cực trong cải cách giáo dục do ông tạo nên được thể hiện như thế nào ? đó chính là nội dung của tác giả muốn gửi đến bạn đọc, góp phần làm rõ thêm sự tiến bộ của nhân vật Hồ Quý Ly.

Moral Principles, the factor influence on Ho Quy Ly’s
Innovate Education Thought
Sunmary:
 Hồ Quý Ly is considered a great Reformer in National History. Especially, education substance reform is one positive and breakthrough highlight about new standpoint view in Ho Quy Ly’s Confucianism Moral Principles Thought.
So, How is the advance and constructive point in his education substance reform represented? That is the main matter ,the author want to display with the Readers, which will can help to bring out more about the innovation thought of Ho Quy Ly.


I.ĐẶT VẤN ĐỀ
Công cuộc cải cách to lớn của Hồ Quý Ly  diễn ra vào cuối thế  kỷ XIV đến  những năm đầu XV, mang nhiều nội dung  tiến bộ và  táo bạo, đôi khi có những nội dung thể hiện tầm nhìn vượt qua cả thời đại của ông. Trong đó, nội dung cải cách giáo dục là một điểm nhấn quan trọng đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và phân tích. Với khuôn khổ của bài viết này, tôi muốn gửi đến người đọc, một cách lý giải mới của tác giả khi đặt toàn bộ nội dung cải cách văn hóa, giáo dục của Hồ Quý Ly trong lăng kính bị yếu tố luân thường của Nho giáo tác động đến. Để mong muốn góp thêm vào những đánh giá về sự tích cực, tiến bộ của nội dung cải cách văn hóa, giáo dục do Hồ Quý Ly chủ xướng.
II.NỘI DUNG
Trước khi bắt đầu đi vào nội dung, chúng ta cần đề cập đến thuật ngữ, theo PGS.TS Doãn Chính thì “luân thường”“Quan hệ giữa người với người trong xã hội phong kiến gọi là nhân luân. Các bậc vua chúa, giai cấp quý tộc và các nhà Nho trong xã hội phong kiến gọi trật tự, thứ bậc và quan hệ  giữa vua và tôi, cha và con, chồng và vợ, anh và em, và bạn bè là “ngũ luân”; đồng thời cho rằng ngũ luân là biểu hiện của lý trời trong đời sống xã hội con người, là đạo lý vĩnh hằng, không thể biến đổi, cho nên gọi là luân thường”[3]; hay theo GS Đào Duy Anh thì “luân thường” được hiểu đơn giản là “phép tắc chính thường của loài người nên theo”[4]. Như vậy, điểm quan trọng thuật ngữ  luân thường của Nho giáo là tính trật tự, thứ  bậc trong việc xây dựng các mối quan hệ xã hội và con người phải làm theo như là một lẻ tự nhiên sẵn có của xã hội.
Sau khi đã làm rõ được nội dung của thuật ngữ luân thường, chúng ta bắt đầu đi vào tìm hiểu các yếu tố trên tác động vào nội dung cải cách của Hồ Quý Ly như thế nào ?
2.1 Cuộc khủng hoảng của vương triều Trần và sự xuất hiện của Hồ Quý Ly
Vương triều Trần vào  khoảng giữa sau thế kỷ XIV, đã lâm vào cuộc khủng hoảng khá trầm trọng trên nhiều mặt.
Thứ nhất, là các tầng lớp quý tộc cầm quyền bắt đầu lao vào các cuộc vui chơi trụy lạc, không còn quan tâm đến đời sống của nhân dân. Đặc biệt từ vua Dụ Tông (1341 – 1369) thì tình hình ngày càng nghiêm trọng hơn nên Đại Việt sử ký toàn thư phải ghi nhận rằng: “Vua vốn tính rất thông tuệ, học vấn cao minh, phòng bị việc võ, sửa sang việc văn, man di đều thần phục cả. Đời Thiệu Phong, công việc chính trị tốt: từ  năm Đại Trị về sau, chơi bời quà độ, cơ  nghiệp nhà Trần từ đấy suy vi”[5] do vua cứ mặc sức xây dựng cung điện, đào hồ nuôi hải sản, cá lạ; xung quanh vua bấy giờ chỉ còn toàn một lũ gian thần xu nịnh và thao túng cấp dưới. Nên việc Chu Văn An (chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám) dâng sớ  chém 7 tên nịnh thần là một động thái yêu nước, song không được Dụ Tông phê chuẩn. Bên cạnh đó, các cuộc thanh trừ trong hoàng toàn tộc diễn ra ngày càng  ác liệt mà nổi tiêu biểu là sự kiện loạn Dương Nhật Lễ (6.1369 – 10.1370) làm triều đình  ngày càng suy yếu.
Thứ hai, vương triều Trần càng  lúc càng không thể tự giải quyết được các khó khăn của đất nước như trước được. Hai vua Trần Minh Tông và Trần Nghệ Tông đã từng có quan điểm điển chế, hành pháp của Đại Việt thời Trần đã có thể cai trị đất nước không cần phải thay đổi vì “Nhà nước đã có phép tắc riêng, Nam Bắc khác nhau, nếu nghe kế của bọn học trò mặt trắng ( hay bạch diện thư sinh -TG) tìm đường tiến thân thì sinh loạn ngay”[6]. Song cái thời “Chính sự buổi đầu đời Khái Thái” mà Nghệ Tông muốn khôi phục không thể thành hiện thực. Giai đoạn này, không còn hình ảnh vua quan triều Trần ra đấp đê, nên liên tiếp nhiều năm hạn hán, lũ lụt, đói kém đè lên đầu người dân. Trên cơ sở đó, nhiều nơi người dân đã nổi dậy làm trộm cướp, khiến triều đình phải vất vả mà đối phó. Theo một thống kê của  Viện sử học thì: Nếu như từ năm 1225, khi triều Trần lên nắm chính quyền đến năm 1343, trong khoảng 118 năm ấy chỉ xảy ra có một cuộc làm phản của Trịnh Giác Mật ở đạo Đà Giang vào năm 1280, thì từ 1343 – 1400, trong vòng 57 năm đã có tới 8 cuộc nổi dậy của dân chúng mà sử chép là giặc cướp[7]. Sự  bế tắc trong việc giải  quyết các vấn đề quốc gia của triều đình còn thể hiện ở việc mỗi khi cần lương thực để đánh giặc, điều phải lệnh kêu gọi quân lính, nhà giàu và người dân quyên góp thóc để đổi lấy tước vị.  
Thứ ba, bất lực với tình hình trong nước vương triều Trần cũng gặp phải khó khăn trước sự nguy hiếp của ngoại bang từ phía bắc và nam. Trong thời gian nửa cuối thế kỷ XIV, triều Minh ở  Trung Quốc liên tục đưa ra những yêu sách nhằm xúc tiến cho một cuộc xâm lược Đại Việt. Như năm 1384, quân Minh đóng tại Lâm An đòi ta phải cung cấp lương thực, sang năm sau thì đòi phải đưa sang 20 nhà sư rồi năm kế tiếp lại đòi ta giao các giống cây như cau, vải, mít, nhãn…nhiều lần khác, nhà Minh đòi ta phải cung cấp khối lượng lớn gồm 5 vạn quân, 50 con voi, 50 vạn học lương lấy cớ là gạo lương không đủ nhưng thực chất là để bắt người nước ta[8]. Do chưa thể ổn định được tình hình đất nước, nên triều Trần phải đáp ứng những yêu cầu trên. Trong khi đó, ở  phía nam quân Chiêm Thành cũng liên tiếp tấn công lãnh thổ Đại Việt. Cũng theo Viện sử học thì: trong khoảng 30 năm cuối thế kỷ XIV, Chiêm Thành đã 16 lần tấn công Đại Việt, trong đó có 2 lần tiến thẳng vào Thăng Long đốt phá kinh thành, cướp bóc của cải và 1 lần đến Quảng Oai uy hiếp kinh thành[9]. Mãi đến năm 1390, sau khi Thượng tướng Trần Khát Chân lấy đầu của vua Chế Bồng Nga thì vấn đề Chiêm Thành mới tạm lắng xuống.
Như vậy, với những thực trạng trên rõ ràng vương triều Trần đang trượt dài trên con đường sụp đổ, đòi hỏi cần phải thay thế mô hình nhà nước phong kiến quân chủ tông tộc bằng một hình thức nhà nước phong kiến quản lý theo cách mới. Trong lúc đó thì Lê Quý Ly đã xuất vì những lợi thế của riêng mình. Theo Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Quý Ly tên tự là Lý Nguyên, suy tính tổ trước là Hồ Hưng Dật vốn người Chiết Giang, đời Hậu Hán thời Ngũ Quý sang làm thái thú Diễn Châu. Sau đó, làm nhà ở hương Bào Đột châu này rồi làm trại chủ. Đến đời Lý, lấy công chúa Nguyệt Đích sinh ra công chúa Nguyệt Đoan. Đến đời cháu thứ 12 là Hồ Liêm dời đến ở hương Đại Lại, Thanh Hóa, làm con nuôi tuyên úy Lê Huấn, từ đấy mới đổi thành họ Lê”[10].
Ông đối với triều Trần có mối quan hệ mật  thiết do có 2 cô đều lấy vua Trần: một bà là mẹ của Trần Nghệ Tông, một bà là mẹ của Trần Duệ Tông. Bản thân cũng được  vua Nghệ Tông gả người em gái là công chúa Huy Ninh (mới mất chồng). Trước tình cảnh triều chính nghiêng ngửa chẳng còn ai đáng tài, nên đối với vua Nghệ Tông: “chỉ có Hồ Quý Ly là người không phải tông thất, nhưng có năng  lực văn võ, hăm hở hành động với ý chí mạnh mẽ hơn hẳn vương hầu quý tộc đương thời”[11]. Do đó nên con đường quan lộ của  Quý Lý ngày càng thuận lợi: vào 1371, từ chứ Chi hậu tứ cục chánh chưởng được thăng lên Khu mật viện đại sứ; không lâu được phong Trung Tuyên quốc thượng hầu; đến năm 1379, giữ chức Tiểu tư không và Nguyên nhung hành hải Tây đô thống chế; năm  1387, được phong Đổng Bình chương sự (tương đương  tể tướng) và đến 1395 đã giữ chức Nhập nội phụ chính Thái sư Bình chương quân quốc trọng sự (tức tể tướng)…cho thấy dưới triều Trần Nghệ Tông đã thực sự có sự ưu ái nhất định đối với Quý Ly. Và dựa vào sự ưu ái trên, mà giai đoạn này, một số biện pháp cải cách tư tưởng giáo dục chủ đạo trong sự nghiệp còn lại của ông đã được  thực  hiện.
2.2 Hồ Quý Ly xây dựng “chính danh” để chuẩn bị cho việc cải cách
Với một tình hình hổn loạn của vương triều Trần được diễn ra ở trên, đã minh chứng cho sự cáo chung của họ Trần đã gần kề. Trong triều đình phong kiến ở Đại Việt lúc này, chỉ còn có một nhân vật sáng giá là Hồ Quý Ly  đang được sự  ủng hộ của thượng hoàng Trần Nghệ Tông (ngày càng rõ hơn sau cái chết của vua Duệ Tông lúc bình Chiêm). Nên Quý Ly đã tranh thủ các điều kiện thuận lợi đang có để xây dựng cho mình một sự “chính danh” trong triều đình, trước bao sự dòm ngó của các quý tộc họ Trần.
Đầu tiên bằng quyền lực đang có của  mình ông đã tiến cử các nhân vật như Phạm Cự Luận giỏi về mưu lược làm Đô sứ; Nguyễn Đa Phương thì làm tướng quân. Rồi tiến  xa hơn trong việc đề nghị thượng hoàng Nghệ Tông phế vua Trần Phế  Đế (sau bị thắt cổ chết); một số tướng lĩnh bị thanh trừ vì có ý đồ chống lại ông (cũng như các chính sách của ông) như Nguyễn Khoái, Nguyễn Vân Nhi, Nguyễn Kha, Lê Lặc, Lê Á vào khoảng tháng 12 năm 1388. Và đặc biệt vào 11 năm sau, trong khi các nội dung cải  cách đang diễn ra  thì  một số quý tộc khác  của họ Trần tìm cách diệt trừ Quý  Ly để gìn giữ triều đình cho dòng họ. Nhưng việc không thành, Trần Khát Chân (được xem là người đứng đầu) cùng 370 người có liên quan bị xử tử, gia sản bị tịch thu toàn bộ. Đây được xem là một sự kiện thanh trừ lớn trước khi Quý Ly chính  thức bước lên  ngôi vua vào ngày 28 tháng 2  năm 1400, lập ra triều  Hồ (1400 – 1407).
Khi xâu chuỗi các sự kiện trên lại theo một tiến trình lịch sử  cụ thể, chúng ta thấy rằng việc Hồ Quý Ly củng cố và xây dựng địa vị đến đỉnh cao cửu  ngũ chính là quá trình ông tạo sự chính danh cho mình. Một điều dễ thấy, các chính sách cải cách  của  họ Hồ vốn gây nên “chính sự phiền hà”, làm ảnh không nhỏ đến quyền lợi, địa vị  đang có được của các quý tộc  cao  cấp của họ Trần, nên họ sẽ bằng mọi cách ngăn cản và phá hoại. Ở vào tình thế như thế đòi hỏi Hồ Quý Ly phải có sự chính danh. Vì theo Khổng Tử nhận định rằng: “Danh bất chính tắt ngôn bất thuận, ngôn bất thuận tắc sự bất thành – nghĩa là: danh không chính thì nói  không xuôi, nói không xuôi thì  việc không thành”[12]. Cái danh mà Quý Ly cần ấy, càng ngày phải to hơn khi mà các nội dung đưa ra ngày càng táo bạo và đi đến việc ông phải tiến hành “thoán đoạt” ngôi vua, để tiện bề  thực thi.
Cơ sở của nhận định trên, chính là việc Hồ Quý Ly cũng vốn là người xuất thân từ  trong lực lượng Nho gia – Bạch diện thư sinh (theo cách  nói của  vua Trần Minh Tông) mà ra. Nên cái thuyết chính danh và tin vào thiên mệnh (ý trời) của Khổng Tử, chắc hẳn ông đã nằm lòng, và có thể dưới  cái óc nhìn có phê phán của mình Quý Ly đã nhận ra thánh nhân cũng không ủng hộ việc duy trì sự trung quân thái quá trái luân thường như triều Trần bấy giờ. Khổng Tử từng nói: “Duy mệnh bất du thường, đạo thiện tắc đắc chi, bất thiện tắc thất chi hỹ - nghĩa là: mệnh trời không nhất  định, thiện thì được, bất thiện thì mất”[13] hay “Hoàng thiên vô thân, duy đức thị phụ; dân tâm vô thường, duy huệ chi hoài. Vi thiện bất đồng,  đồng quy vu trị; vi ác bất đồng, đồng quy vu loạn, nhĩ kỳ giới tai – nghĩa là: ông trời không thân riêng ai, chỉ có đức là trời giúp; lòng dân không có thường, chỉ có ơn là mếm. Làm điều lành cũng không giống nhau, nhưng kết  quả là trị; làm điều ác cũng không giống nhau, nhưng kết quả là loạn, người phải lấy làm răng vậy”[14]. Một người coi trọng thiên lý, luân thường như Khổng Tử cũng đã nhìn được  ngôi báo chỉ vững bền  khi mà vua đó hành thiện, thương dân và biết cai trị giải quyết các khó khăn của quốc gia.
Một điểm khác cũng khá quan trọng là Hồ Quý Lý đã nhận ra việc đề cao giáo dục khoa  cử và trọng dụng kẻ sĩ chính là cách giải quyết được được bế tắc của vương triều Trần. Vì Khổng Tử nhận định rằng: “Hiếu nhân bất hiếu học, kỳ tế giã ngu: hiếu trí bất hiếu học, kỳ tế giã đãng: hiếu tín bất hiếu học, kỳ tế giã tặc: hiếu trực bất hiếu học, kỳ tế  giã giảo, hiếu dũng bất hiếu học, kỳ tế giã loạn: hiếu cương bất hiếu học, kỳ tế giã cuồng – nghĩa là: muốn nhân mà không học thì bị cái che mờ làm ngu; muốn trí mà không muốn học, thì bị cái che mờ là cao kỳ thái quá; muốn tính mà không muốn học, thì bị cái che mờ là hại nghĩa; muốn trực mà không muốn học thì bị cái che mờ là ngang ngạnh; muốn dũng mà không muốn học thì bị cái che mờ là loạn; muốn cương mà không muốn học thì bị cái che mờ là táo bạo khinh suất”[15] hoặc ngài đánh giá cao việc dùng người tài nên nói rằng: “Tiên hữu tư, xá tiểu quá, cử hiền tài – nghĩa là: việc  để hữu tư xét trước, xá lỗi nhỏ, cất nhắc người giỏi”[16].
Nên từ  rất sớm Hồ Quý Ly đã chú trọng đến việc tuyển chọn nhân tài thể hiện ngay trong những nội dung cải cách giáo dục như: tăng cường đội ngũ quan lại được  tuyển chọn bằng  các kỳ thi Thái học sinh. Trong khoa thi 2.1393, lấy đỗ 30 người; 8.1400, tổ chức thi lấy đỗ 20 người, trong đó có cả Nguyễn Trãi và đặc biệt là 12.1401, Hồ Hán Thương đã cho Nguyễn Phi Khanh (cha Nguyễn Trãi) làm Hàn Lâm học sinh, người vốn bị nhà Trần từ chối trọng dụng vì  xuất thân thấp hèn; hay việc triều Hồ cũng trọng dụng lại các nhân vật của triều trước như: Hoàng Hối Khanh, Nguyễn Huy Chu và Phạm Cự Luận. Những công việc này của Hồ Quý Ly là đã  hợp với tự nhiên và ý trời vì đất nước muốn giải quyết được  khó khăn phải dựa vào một triều đình phong kiến quân chủ quan liêu xuất thân từ khoa bảng. Nên tác giả Hồ Danh Phiệt đã có lý khi nhận định rằng: “Từ khống chế đến thủ tiêu bộ máy nhà nước quý  tộc Trần, Hồ Quý Ly không đi theo vết xe đổ của nhà Trần. Ông duy trì bộ máy nhà nước quân chủ trung ương tập quyền nhưng không tạo dựng một tầng lớp vương hầu quý tộc theo phương châm “Tôn tử duy thành” như vương triều Trần đã làm”[17].
Và trong cuộc cải cách của mình, Quý Ly đã nhanh chóng đi đến việc hoàn thiện chế độ khoa cử. Theo Đại Việt sử ký toàn thư có ghi nhận: “Xuống chiếu định cách thức thi cử nhân, dùng thể văn bốn kỳ, bãi bỏ phép viết ám tả cổ văn. Kỳ đệ nhất thi một bài kinh nghĩa, có các đoạn phá  đề, tiếp ngữ, tiểu giảng, nguyên  đề,  đại giảng, kết luận, từ 500  chữ trở lên; kỳ thứ hai thi một bài thơ Đường luật, một bài thơ phú cổ thể, hoặc thể Ly tao, thể Văn tuyển, cũng từ 500 chữ trở lên; kỳ thứ ba thi một bài chiếu theo thể Hán, một bài chế, một bài biểu dùng thể tứ lục đời Đường; kỳ thứ tư thi một bài văn sách, lấy kinh, sử hay thời vụ mà ra đề, từ 1000 chữ trở lên. Cứ năm trước thi hương thì năm sau thi hội, ai đỗ thì vua thi một bài văn sách để định cao thấp”[18] về sau trên tinh thần của cha  mình Hồ Hán Thương  lại một lần  nữa điều  chỉnh cho hoàn bị “Phép thi bắt chước lối văn thể ba trường của nhà Nguyên, nhưng chia làm bốn kỳ, lại có kỳ thi viết chữ và tính, thành ra năm kỳ”[19]. Nội dung cải cách  của Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương thể hiện được những điểm nổi bậc sau: thứ  nhất, đề cao thi cử cốt yếu  bỏ lối thi ám tả cổ văn (tránh việc cóp  nhặt kinh điển) mà buộc người học phải có óc tư duy thực  tiễn hơn; thứ hai, đặt thêm nội dung thi làm toán thể hiện một điểm tiến bộ, mà các thời sau triều Hồ không làm được; thứ ba,  kẻ sĩ bấy giờ rất được ưu đãi, vì ở địa phương được cấp “học điền” để bảo dưỡng người học và hằng năm quan viên phải tiến cử người tài, ai đỗ kỳ thi Hương  thì  được miễn lao dịch, đỗ kỳ thi ở bộ Lễ miễn tuyển lính …Tất cả  đã cho thấy, Hồ Quý Ly cùng vương triều Hồ đã  thật sự muốn  thực thi cái nghiệp giáo hóa mà Khổng Tử vốn đề cao và cần thiết  trong việc trị nước. Nên chính  Phan Huy Chú khi nhận định về khoa cử giai  đoạn này đã viết: “Phép khoa cử đời Trần đến đây mới  đủ  văn tự 4 trường, đến nay còn theo không thay đổi được. Chọn nhân tài bằng văn học không gì hơn phép ấy”[20]
Từ các điều trên, ta thấy cái chính quyền của họ Hồ đang gây dựng nên  đã hợp với quan điểm  luân thường của Nho giáo như Khổng Tử từng đề cập: “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử - nghĩa là: vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con (Luận ngữ)”[21]. Nhưng do thời gian tồn tại không lâu thì gặp phải sự xâm lược của nhà Minh, nên việc phát triển triều đình quân chủ  quan liêu đề cao Nho giáo phải đợi đến thời vua Lê Thánh Tông rồi Minh Mạng.
2.3 Toàn bộ nội dung cải cách  giáo dục thể hiện rõ tính dân tộc hợp lẻ trời
Theo một lẻ  tự nhiên, vào buổi ban sơ của dân tộc khi các hệ thống  học thuật tư tương tưởng  của Trung Hoa đã phát triển và đi đến đỉnh cao, thì dân tộc ta đang trong vòng Bắc thuộc. Nên lần lượt các  chính quyền  cai trị phương  Bắc đã cố tình truyền  bá Nho giáo để đồng hóa dân tộc Việt. Song mục tiêu nô dịch nước ta của các vương triều phong kiến Trung Hoa không thành hiện thực, nhưng dân tộc ta vẫn tiếp thu và kế thừa các giá trị tốt đẹp của  Nho giáo trên con đường phong kiến hóa của các vương triều độc lập. Cho nên tác giả  nhận thấy, đến một lúc nào  đó thì các giáo lý được  xem là “khuôn vàng  thước ngọc” của Nho giáo Trung Hoa phải được chắt lọc lại cho hợp với đặc điểm  của dân tộc,  của đất nước vốn không hoàn toàn phụ thuộc vào hệ tư tưởng phương  Bắc. cho nên xét  thấy, bên cạnh việc từng bước xác lập hệ thống triều đình phong kiến quân chủ quan liêu xuất thần từ khoa cử, Hồ Quý  Ly đã mạnh dạn lên tiếng phê phán sự cố chấp trong việc chỉ quen thuộc lòng  kinh điển Nho gia mà không có tư duy độc lập. Điều đó  thể hiện ở một loạt các chính sách  văn hóa, giáo dục đã được Đại Việt sử ký  toàn thư ghi nhận lại (vốn dùng để làm cơ  sở phê phán vương triều Hồ).
Đến tháng 12 năm 1392, ông cho làm sách Minh đạo gồm 14 thiên dâng lên Nghệ Tông và được khen ngợi. Về nội dung thì sử cũ chỉ  ghi vài dòng khái lược: “cho Chu Công là tiên thánh, Khổng tử là tiên sư; ở Văn miếu đặt tượng Chu Công ở chính giữa, ngoảnh về phương nam, Khổng tử ở phía bên, ngoảnh về phương Tây. Cho sách Luận ngữ có bốn chỗ ngờ, như Khổng Tử ra mắt nàng Nam Tử, ở nước Trần hết lương, Công Sơn, Phật Hất gọi, mà Khổng Tử đều muốn đến,…cho Hàn Dũ là đạo Nho, cho bọn Chu Mậu Thúc, Trình Hiệu, Trình Di, Dương Thì, La Trọng Tố, Lý Diên Niên, Chu Tử đều là học thì rộng nhưng tài thì kém, không quan thiết đến sự tình, chỉ chuyên  làm nghề lấy cắp văn chương của người xưa”[22]. Sau đó, lại cho soạn sách Thi Nghĩa (nghĩa của Kinh Thi) bằng quốc âm dùng để dạy hậu phi và cung nhân. Điều đáng lưu ý là ông không dùng lời tựa của Chu Tử mà tự tại soạn bài tựa khác có lẽ để thể hiện ý kiến của mình. Đến năm 1395, Quý Ly lại cho chép thiên Vô dật và dịch ra chữ quốc âm  dùng để dạy vua.
Việc bình luận các sự kiện này của Hồ Quý Ly đã được  nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và đưa ra nhiều quan điểm khác nhau (đôi khi là đối lập nhau). Song người viết nhận thấy rằng các  việc làm trên của ông, thể hiện sự tinh tường về lý thuyết Nho giáo và muốn làm việc tách dòng để dân tộc không phải chịu sự nô dịch trong vòng tư tưởng của phương Bắc. Bởi Khổng Tử cũng từng dạy rằng: “Học nhi bất tư tắc võng, tư nhi bất học tắc đãi – nghĩa là: học mà không nghĩ thì mờ tối  chẳng hiểu gì, nghĩa mà không học thì khó nhọc, mất công  không”[23], nên trong hoàn cảnh thực tế của cuối thời Trần, cái suy nghĩ của ông đã đi đến việc đánh giá lại hệ thống giá trị thực tế của Nho gia đối với dân tộc. Nên đã có hành động phê phán các người  đời sau Khổng Tử cố tình tô điểm thêm  ý mình hay luôn mượn dẫn kinh điển mà thiếu tính thực hành. Sự kiện An Phủ sứ lộ Thanh Hóa là Nguyễn Cảnh Chân dâng thư xin học theo việc làm cũ của đời Hán, Đường Trung Hoa để cải tạo đất nước, Quý  Ly khi ấy đã phê rằng: “Biết  được mấy chữ mà nói chuyện Hán Đường, thế  gọi là người câm hay nói, chỉ tổ người cười thôi”[24], đã cho thấy cái thiên kiến không ưa việc trích dẫn tích  xưa mà dùng cho việc ngày nay, hay  lấy kế sách phương  Bắc mà dùng cho nước Nam thì thật còn nhiều bất cập.
Việc sử dụng chữ viết quốc âm để chép sách kinh điển, diễn giảng ý kiến của mình rồi dạy cho các lực lượng quý tộc trong triều đình đã thể hiện tinh thần muốn thoát khỏi hệ tư tưởng Tống Nho, nhưng vẫn giữ được những giá trị kinh điển của của  Nho giáo thời khởi thủy (vốn chưa bị biến hóa để đi đến huyền diệu). Điều đó thể hiện thứ nhất, ở việc không xem trọng các tôn giáo Đạo và Phật mà vẫn đề cao Nho giáo (hoàn thiện hệ thống thi cử và dịch kinh sách Nho gia);  thứ hai, muốn quay về  đầu nguồn tư tưởng nên mới đề cao  Chu Công (tức Chu Công Đáng, con thứ tư của Chu Văn Vương) vốn là người được Khổng Tử kính trọng cảm thán rằng: “Ta suy sụp lắm thay! Từ đây rồi ta không còn nằm mộng thấy Chu Công”[25] “Chu Công phân phong cho các chư hầu xong rồi lập tức chế ra lễ nhạc, đấy là một sự kiện lớn được các Nho gia ca tụng”[26]. Nên tác giả Nguyễn Đăng Thục đã đánh giá cao việc làm trên của Hồ Quý Ly vì: “lấy Khổng Tử là bắt đầu của dòng Nho học thì tức phản với chính tinh thần truyền thống của nó rồi vậy”[27].
Bên cạnh đó, cũng thấy rằng Quý Ly cũng thể hiện rõ bị ảnh hưởng của tinh thần luân thường Nho giáo trong việc tích cực chế tác lễ nhạc cho triều đình phong kiến dân tộc như việc Chu Công đã làm mà Khổng Tử ngưỡng mộ và tiếp nối. Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì dưới  triều Hồ đã: “Đặt nhã nhạc, lấy con các quan văn làm Kinh vĩ lang, con các quan võ làm Chỉnh đốn lang, học tập điệu múa văn và võ”[28] hay “Tháng 8, Hán Thương đắp đàn Giao ở Đốn Sơn để làm lễ tế Giao; đại xá cho thiên hạ”[29] về sau lại cho dựng thêm Thái  miếu: “ở các lăng Thiên Xương, để thờ cúng tổ khảo, sớm chiều cúng tế. Lại dựng miếu ở các lăng Bào Đột, Linh Nguyên để thờ cúng tiên tổ. Ở kinh thành dựng Đông thái miếu  để thờ cúng tôn thái họ Hồ, Tây thái miếu  để thờ họ ngoại là Trần Minh Tông và Trần Nghệ Tông”[30]. Tất cả cho thấy họ Hồ rất coi trọng lễ và nhạc vì đó được xem là một trong những yêu  cầu của bậc  quân vương và hợp với luân thường đạo lý. Khổng Tử  từng nói: “Lễ tiết dân tâm, nhạc hòa dân thanh, chính dĩ hành chi, hình dĩ phòng chi, lễ nhạc hình chính, tứ đạt nhi bất bội, tắc vương đạo bị hỹ - nghĩa là:  lễ để tiết  chế lòng dân, nhạc để hòa thanh âm của dân, chính trị để định việc làm, hình pháp để ngăn cấm điều bậy. Lễ nhạc hình chính, bốn việc ấy đạt cả, không trái điều nào thì vương đạo đủ vậy (Nhạc ký)”[31] hay để đề cao  lễ nhạc ngài nhấn mạnh: “Lễ nhạc quan hệ đến luân lý, phong tục và chính trị rất mật thiết lắm, cho nên các nho giả tìm cái căn nguyên ở trong đạo tự nhiên của trời đất, cho lễ là cái trật tự của trời đất, nhạc là cái điều hòa của trời đất: Nhạc giả thiên địa chi hòa giã, lễ giả thiên địa  chi tự giã (Lễ Ký)”[32].
Như vậy với những luận chứng trên đã cho thấy, yếu tố luân thường Nho giáo đã có tác  động sâu sắc đến  cái nhìn của Hồ Quý Lý, dẫn đến những  nội dung cải cách về mặt  tư tưởng, văn  hóa, giáo dục hay việc buộc phải  “thoán đoạt” ngôi vua Trần là nhằm giải quyết khó  khăn của đất nước và từng bước khẳng định cái  riêng của dân tộc, hướng đến  cái luân thường phù hợp với dân tộc. Chỉ có những người không đứng trên cái nhìn của  dân tộc để soi rọi về luân thường mới đánh giá Hồ Quý Ly và vương triều của  ông làm những việc trái với luân thường Nho giáo.
III.KẾT LUẬN
Qua toàn bộ nội dung của bài viết trên, chúng ta nhìn thấy được rằng: công cuộc cải cách của Hồ Quý Ly vào cuối thế kỷ XIV đến những năm đầu thế kỷ XV cũng chịu sự tác động không nhỏ của yếu tố luân thường Nho giáo. Nhưng sự tác động đó không hoàn toàn sáo rỗng, giáo điều, mà có tính chọn lọc, biết dựa vào sự vận động và phát triển tự nhiên của dân tộc. Từ đó, chúng ta có thể thấy được điểm mới và điểm tích cực của cuộc cải cách này.
Về điểm mới, tư tưởng luân thường đã làm cho Hồ Quý Ly thấy được cần phải xây dựng một nhà nước quân chủ quan liêu, chủ yếu dựa vào hệ thống quan lại từ khoa cử. Vì đến cuối thế kỷ XIV, thì vai trò của một triều đình phong kiến tông tộc, cụ thể là lực lượng quý tộc họ Trần đã mất vai trò lịch sử. Nên triều Hồ thành lập là dựa trên quan điểm “tam cương” với quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ có trật tự và chú trọng đào tạo  rồi sử dụng nhân tài.
Về điểm tích cực, được thể hiện rõ qua việc dười lúc còn làm quan thời Trần, đến khi hoàn thành việc “chính danh” lên ngôi vua triều Hồ, Hồ Quý Ly đã cố gắng hoàn thiện chế độ thi cử tiến bộ, làm nền tang cho các vương triều độc lập về sau như các nhà, Lê, Mạc, Nguyễn. Tiếp đến, Quý Ly còn mạnh dạng hướng dòng tư tưởng Nho gia của Đại Việt lúc bấy giờ đi theo sự phát triển nặng tính dân tộc và có óc phê phán các giá trị kinh điển của Nho giáo. Cái sự học có dựa vào “làm tính”. Biết khen chê các nội dung của người xưa, biết quay về với cái gốc của đạo Nho, không chịu phụ thuộc hoàn toàn vào tư tưởng của Trung Hoa là một điểm tiến bộ vượt bậc. Từ đó, cũng xin đưa ra một số ý kiến để các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu.
Thứ nhất, cần  phải tiếp tục  nghiên cứu và phân tích tiếp nội dung tư tưởng của Hồ Quý Ly về tính Nho giáo và tính dân tộc, để  qua đó  đi đến sự đánh giá về nhân vật lịch sử này đúng hơn, chân thực.
Thứ hai, Nho giáo dưới  thời kỳ cuộc cải cách  của họ Hồ đã phát  triển đến mức độ nào ? đặc điểm là gì và cần làm rõ cái nhìn về những giá trị Nho giáo thời kỳ đó tác  động  như  thế nào đến các giai đoạn sau.
Cho nên, trong tương  lai, cần phải có thêm các  cuộc hội thảo, tọa đàm khoa học nghiêm túc và chuyên sâu để đem vấn đề Nho giáo Việt Nam dưới  thời Hồ ra tiếp tục nghiên cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2010), Hán Việt từ điển, NXB Văn hóa thông tin, HN
2. Doãn Chính (2009), Tự điển triết học Trung Quốc, NXB CTQG, HN.
3. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí – Khoa mục chí, tập 2, NXB KHXH.
4. Trần Trọng Kim (1971), Nho giáo, quyển thượng, NXB Bộ giáo dục – trung tâm học hiệu, Sài Gòn.
5. Ngô Sĩ Liên và các sử thần nhà Lê (2004), Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
6. Hồ Danh Phiệt (1997), Hồ Quý Lý, NXB Văn hóa – thông tin, HN.
7. Nguyễn Tôn Nhan (1998),  100 Nhân vật nổi tiếng nhất văn hóa Trung Hoa, NXB Văn học, HN.
8. Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 5, NXB TP.HCM.
9. Nguyễn Q.Thắng – Nguyễn Bá Thế (2006), Tự điển nhân vật lịch sử Việt Nam (Bộ mới), NXb Tổng hợp TP.HCM.
10. Viện sử học (2007), Lịch sử Việt Nam  tập III,  Thế kỷ XV – XVI, NXB KHXH, HN.
Tham luận tại Hội thảo Khoa học Quốc tế "Luân Thường Nho Giáo Dưới Góc Nhìn Xuyên Văn Hóa" tổ chức vào 1/6/2013

[1] Trường THCS Võ Trường Toản  Q1 TP.HCM
[2] Trường THCS Võ Trường Toản  Q1 TP.HCM
[3] Doãn Chính (2009), Tự điển triết học Trung Quốc, NXB CTQG, HN, tr 347.
[4] Đào Duy Anh (2010), Hán Việt từ điển, NXB Văn hóa thông tin, HN, tr 420.
[5] Đại Việt sử ký toàn thư (2004), tập I, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr 625.
[6] Đại Việt sử ký toàn thư (2004), sđd, tập I, tr 641.
[7] Viện sử học (2007), Lịch sử Việt Nam  tập III,  Thế kỷ XV – XVI, NXB KHXH, HN, tr24.
[8] Viện sử học (2007), sđd, tr25-26.
[9] Viện sử học (2007), sđd, tr25.
[10] Đại Việt sử ký toàn thư (2004), tập I, sđd, tr 721.
[11] Hồ Danh Phiệt (1997), Hồ Quý Lý, NXB Văn hóa – thông tin, HN, tr 112.
[12] Trần Trọng Kim (1971), Nho giáo, quyển thượng, NXB Bộ giáo dục – trung tâm học hiệu, Sài Gòn, tr 128.
[13] Trần Trọng Kim (1971), sđd, tr 130.
[14] Trần Trọng Kim (1971), sđd, tr 130
[15] Trần Trọng Kim (1971), sđd, tr 84
[16] Trần Trọng Kim (1971), sđd, tr 138.
[17] Hồ Danh Phiệt (1997), sđd, HN, tr 188.
[18] Đại Việt sử ký toàn thư (2004), tập I, sđd, tr 713.
[19] Đại Việt sử ký toàn thư (2004), tập I, sđd, tr 740.
[20] Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí – Khoa mục chí, tập 2, NXB KHXH, tr154.
[21] Trần Trọng Kim (1971), sđd, tr 129.
[22] Đại Việt sử ký toàn thư (2004), tập I, sđd, tr 707.
[23] Trần Trọng Kim (1971), sđd, tr 85
[24] Đại Việt sử ký toàn thư (2004), tập I, sđd, tr 733.
[25] Nguyễn Tôn Nhan (1998),  100 nhân vật nổi tiếng nhất văn hóa Trung Hoa, NXB Văn học, HN, tr15.
[26] Nguyễn Tôn Nhan, sđd, tr13.
[27] Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 5, NXB TP.HCM, tr63.
[28] Đại Việt sử ký toàn thư (2004), tập I, sđd, tr 733
[29] Đại Việt sử ký toàn thư (2004), tập I, sđd, tr 733.
[30] Đại Việt sử ký toàn thư (2004), tập I, sđd, tr 736.
[31] Trần Trọng Kim (1971), sđd, tr 124.
[32] Trần Trọng Kim (1971), sđd, tr 110.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét