NGUYỄN
SAN HÀ[1]
Tóm tắt:
Hồ
Quý Ly được xem là một nhà cải cách lớn trong lịch sử dân tộc. Đặc biệt, nội
dung cải cách giáo dục là một điểm nhấn mang tính tích cực và tiến bộ về cách
nhìn mới trong tư tưởng luân thường Nho giáo của Hồ QuýLy. Vậy điểm mới và tích cực trong cải cách giáo dục do
ông tạo nên được thể hiện như thế nào ? đó chính là nội dung của tác giả muốn gửi
đến bạn đọc, góp phần làm rõ thêm sự tiến bộ của nhân vật Hồ Quý Ly.
Moral Principles, the factor
influence on Ho Quy Ly’s
Innovate Education Thought
Sunmary:
Hồ Quý Ly is considered a great Reformer in
National History. Especially, education substance reform is one positive and
breakthrough highlight about new standpoint view in Ho Quy Ly’s Confucianism
Moral Principles Thought.
So, How is the advance and
constructive point in his education substance reform represented? That is the
main matter ,the author want to display with the Readers, which will can help
to bring out more about the innovation thought of Ho Quy Ly.
I.ĐẶT
VẤN ĐỀ
Công
cuộc cải cách to lớn của Hồ Quý Ly diễn
ra vào cuối thế kỷ XIV đến những năm đầu XV, mang nhiều nội dung tiến bộ và
táo bạo, đôi khi có những nội dung thể hiện tầm nhìn vượt qua cả thời đại
của ông. Trong đó, nội dung cải cách giáo dục là một điểm nhấn quan trọng đã được
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và phân tích. Với khuôn khổ của bài viết này, tôi
muốn gửi đến người đọc, một cách lý giải mới của tác giả khi đặt toàn bộ nội
dung cải cách văn hóa, giáo dục của Hồ Quý Ly trong lăng kính bị yếu tố luân
thường của Nho giáo tác động đến. Để mong muốn góp thêm vào những đánh giá về sự
tích cực, tiến bộ của nội dung cải cách văn hóa, giáo dục do Hồ Quý Ly chủ xướng.
II.NỘI DUNG
Trước
khi bắt đầu đi vào nội dung, chúng ta cần đề cập đến thuật ngữ, theo PGS.TS
Doãn Chính thì “luân thường” là “Quan hệ giữa người với người trong xã hội
phong kiến gọi là nhân luân. Các bậc vua chúa, giai cấp quý tộc và các nhà Nho
trong xã hội phong kiến gọi trật tự, thứ bậc và quan hệ giữa vua và tôi, cha và con, chồng và vợ, anh
và em, và bạn bè là “ngũ luân”; đồng thời cho rằng ngũ luân là biểu hiện của lý
trời trong đời sống xã hội con người, là đạo lý vĩnh hằng, không thể biến đổi,
cho nên gọi là luân thường”[3];
hay theo GS Đào Duy Anh thì “luân thường”
được hiểu đơn giản là “phép tắc chính thường
của loài người nên theo”[4].
Như vậy, điểm quan trọng thuật ngữ
luân thường của Nho giáo là tính trật tự, thứ bậc trong việc xây dựng các mối quan hệ xã hội
và con người phải làm theo như là một lẻ tự nhiên sẵn có của xã hội.
Sau
khi đã làm rõ được nội dung của thuật ngữ luân thường, chúng ta bắt đầu đi vào
tìm hiểu các yếu tố trên tác động vào nội dung cải cách của Hồ Quý Ly như thế
nào ?
2.1
Cuộc khủng hoảng của vương triều Trần và sự xuất hiện của Hồ Quý Ly
Vương
triều Trần vào khoảng giữa sau thế kỷ
XIV, đã lâm vào cuộc khủng hoảng khá trầm trọng trên nhiều mặt.
Thứ
nhất, là các tầng lớp quý tộc cầm quyền bắt đầu lao vào
các cuộc vui chơi trụy lạc, không còn quan tâm đến đời sống của nhân dân. Đặc
biệt từ vua Dụ Tông (1341 – 1369) thì tình hình ngày càng nghiêm trọng hơn nên
Đại Việt sử ký toàn thư phải ghi nhận rằng: “Vua
vốn tính rất thông tuệ, học vấn cao minh, phòng bị việc võ, sửa sang việc văn,
man di đều thần phục cả. Đời Thiệu Phong, công việc chính trị tốt: từ năm Đại Trị về sau, chơi bời quà độ, cơ nghiệp nhà Trần từ đấy suy vi”[5]
do vua cứ mặc sức xây dựng cung điện, đào hồ nuôi hải sản, cá lạ; xung quanh
vua bấy giờ chỉ còn toàn một lũ gian thần xu nịnh và thao túng cấp dưới. Nên việc
Chu Văn An (chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám) dâng sớ chém 7 tên nịnh thần là một động thái yêu nước,
song không được Dụ Tông phê chuẩn. Bên cạnh đó, các cuộc thanh trừ trong hoàng
toàn tộc diễn ra ngày càng ác liệt mà nổi
tiêu biểu là sự kiện loạn Dương Nhật Lễ (6.1369 – 10.1370) làm triều đình ngày càng suy yếu.
Thứ
hai, vương triều Trần càng lúc càng không thể tự giải quyết được các khó
khăn của đất nước như trước được. Hai vua Trần Minh Tông và Trần Nghệ Tông đã từng
có quan điểm điển chế, hành pháp của Đại Việt thời Trần đã có thể cai trị đất
nước không cần phải thay đổi vì “Nhà nước
đã có phép tắc riêng, Nam Bắc khác nhau, nếu nghe kế của bọn học trò mặt trắng
( hay bạch diện thư sinh -TG) tìm đường tiến thân thì sinh loạn ngay”[6].
Song cái thời “Chính sự buổi đầu đời Khái
Thái” mà Nghệ Tông muốn khôi phục không thể thành hiện thực. Giai đoạn này,
không còn hình ảnh vua quan triều Trần ra đấp đê, nên liên tiếp nhiều năm hạn
hán, lũ lụt, đói kém đè lên đầu người dân. Trên cơ sở đó, nhiều nơi người dân
đã nổi dậy làm trộm cướp, khiến triều đình phải vất vả mà đối phó. Theo một thống
kê của Viện sử học thì: Nếu như từ năm 1225, khi triều Trần lên nắm
chính quyền đến năm 1343, trong khoảng 118 năm ấy chỉ xảy ra có một cuộc làm phản
của Trịnh Giác Mật ở đạo Đà Giang vào năm 1280, thì từ 1343 – 1400, trong vòng
57 năm đã có tới 8 cuộc nổi dậy của dân chúng mà sử chép là giặc cướp[7].
Sự bế tắc trong việc giải quyết các vấn đề quốc gia của triều đình còn
thể hiện ở việc mỗi khi cần lương thực để đánh giặc, điều phải lệnh kêu gọi quân
lính, nhà giàu và người dân quyên góp thóc để đổi lấy tước vị.
Thứ
ba, bất lực với tình hình trong nước vương triều Trần
cũng gặp phải khó khăn trước sự nguy hiếp của ngoại bang từ phía bắc và nam. Trong
thời gian nửa cuối thế kỷ XIV, triều Minh ở
Trung Quốc liên tục đưa ra những yêu sách nhằm xúc tiến cho một cuộc xâm
lược Đại Việt. Như năm 1384, quân Minh đóng tại Lâm An đòi ta phải cung cấp
lương thực, sang năm sau thì đòi phải đưa sang 20 nhà sư rồi năm kế tiếp lại
đòi ta giao các giống cây như cau, vải, mít, nhãn…nhiều lần khác, nhà Minh đòi ta phải cung cấp khối lượng lớn
gồm 5 vạn quân, 50 con voi, 50 vạn học lương lấy cớ là gạo lương không đủ nhưng
thực chất là để bắt người nước ta[8].
Do chưa thể ổn định được tình hình đất nước, nên triều Trần phải đáp ứng những
yêu cầu trên. Trong khi đó, ở phía nam
quân Chiêm Thành cũng liên tiếp tấn công lãnh thổ Đại Việt. Cũng theo Viện sử học
thì: trong khoảng 30 năm cuối thế kỷ XIV,
Chiêm Thành đã 16 lần tấn công Đại Việt, trong đó có 2 lần tiến thẳng vào Thăng
Long đốt phá kinh thành, cướp bóc của cải và 1 lần đến Quảng Oai uy hiếp kinh
thành[9].
Mãi đến năm 1390, sau khi Thượng tướng Trần Khát Chân lấy đầu của vua Chế Bồng
Nga thì vấn đề Chiêm Thành mới tạm lắng xuống.
Như
vậy, với những thực trạng trên rõ ràng vương triều Trần đang trượt dài trên con
đường sụp đổ, đòi hỏi cần phải thay thế mô hình nhà nước phong kiến quân chủ
tông tộc bằng một hình thức nhà nước phong kiến quản lý theo cách mới. Trong
lúc đó thì Lê Quý Ly đã xuất vì những lợi thế của riêng mình. Theo Đại Việt sử
ký toàn thư cho biết: “Quý Ly tên tự là
Lý Nguyên, suy tính tổ trước là Hồ Hưng Dật vốn người Chiết Giang, đời Hậu Hán
thời Ngũ Quý sang làm thái thú Diễn Châu. Sau đó, làm nhà ở hương Bào Đột châu
này rồi làm trại chủ. Đến đời Lý, lấy công chúa Nguyệt Đích sinh ra công chúa
Nguyệt Đoan. Đến đời cháu thứ 12 là Hồ Liêm dời đến ở hương Đại Lại, Thanh Hóa,
làm con nuôi tuyên úy Lê Huấn, từ đấy mới đổi thành họ Lê”[10].
Ông
đối với triều Trần có mối quan hệ mật
thiết do có 2 cô đều lấy vua Trần: một bà là mẹ của Trần Nghệ Tông, một
bà là mẹ của Trần Duệ Tông. Bản thân cũng được
vua Nghệ Tông gả người em gái là công chúa Huy Ninh (mới mất chồng). Trước
tình cảnh triều chính nghiêng ngửa chẳng còn ai đáng tài, nên đối với vua Nghệ
Tông: “chỉ có Hồ Quý Ly là người không phải
tông thất, nhưng có năng lực văn võ, hăm
hở hành động với ý chí mạnh mẽ hơn hẳn vương hầu quý tộc đương thời”[11].
Do đó nên con đường quan lộ của Quý Lý
ngày càng thuận lợi: vào 1371, từ chứ Chi hậu tứ cục chánh chưởng được thăng
lên Khu mật viện đại sứ; không lâu được phong Trung Tuyên quốc thượng hầu; đến
năm 1379, giữ chức Tiểu tư không và Nguyên nhung hành hải Tây đô thống chế;
năm 1387, được phong Đổng Bình chương sự
(tương đương tể tướng) và đến 1395 đã giữ
chức Nhập nội phụ chính Thái sư Bình chương quân quốc trọng sự (tức tể tướng)…cho
thấy dưới triều Trần Nghệ Tông đã thực sự có sự ưu ái nhất định đối với Quý Ly.
Và dựa vào sự ưu ái trên, mà giai đoạn này, một số biện pháp cải cách tư tưởng
giáo dục chủ đạo trong sự nghiệp còn lại của ông đã được thực
hiện.
2.2
Hồ Quý Ly xây dựng “chính danh” để chuẩn bị cho việc cải cách
Với
một tình hình hổn loạn của vương triều Trần được diễn ra ở trên, đã minh chứng
cho sự cáo chung của họ Trần đã gần kề. Trong triều đình phong kiến ở Đại Việt
lúc này, chỉ còn có một nhân vật sáng giá là Hồ Quý Ly đang được sự
ủng hộ của thượng hoàng Trần Nghệ Tông (ngày càng rõ hơn sau cái chết của
vua Duệ Tông lúc bình Chiêm). Nên Quý Ly đã tranh thủ các điều kiện thuận lợi
đang có để xây dựng cho mình một sự “chính
danh” trong triều đình, trước bao sự dòm ngó của các quý tộc họ Trần.
Đầu
tiên bằng quyền lực đang có của mình ông
đã tiến cử các nhân vật như Phạm Cự Luận giỏi về mưu lược làm Đô sứ; Nguyễn Đa
Phương thì làm tướng quân. Rồi tiến xa
hơn trong việc đề nghị thượng hoàng Nghệ Tông phế vua Trần Phế Đế (sau bị thắt cổ chết); một số tướng lĩnh bị
thanh trừ vì có ý đồ chống lại ông (cũng như các chính sách của ông) như Nguyễn
Khoái, Nguyễn Vân Nhi, Nguyễn Kha, Lê Lặc, Lê Á vào khoảng tháng 12 năm 1388.
Và đặc biệt vào 11 năm sau, trong khi các nội dung cải cách đang diễn ra thì một
số quý tộc khác của họ Trần tìm cách diệt
trừ Quý Ly để gìn giữ triều đình cho
dòng họ. Nhưng việc không thành, Trần Khát Chân (được xem là người đứng đầu)
cùng 370 người có liên quan bị xử tử, gia sản bị tịch thu toàn bộ. Đây được xem
là một sự kiện thanh trừ lớn trước khi Quý Ly chính thức bước lên
ngôi vua vào ngày 28 tháng 2 năm
1400, lập ra triều Hồ (1400 – 1407).
Khi
xâu chuỗi các sự kiện trên lại theo một tiến trình lịch sử cụ thể, chúng ta thấy rằng việc Hồ Quý Ly củng
cố và xây dựng địa vị đến đỉnh cao cửu
ngũ chính là quá trình ông tạo sự chính danh cho mình. Một điều dễ thấy,
các chính sách cải cách của họ Hồ vốn gây nên “chính sự phiền hà”, làm ảnh không nhỏ đến quyền lợi, địa vị đang có được của các quý tộc cao cấp
của họ Trần, nên họ sẽ bằng mọi cách ngăn cản và phá hoại. Ở vào tình thế như
thế đòi hỏi Hồ Quý Ly phải có sự chính danh. Vì theo Khổng Tử nhận định rằng: “Danh bất chính tắt ngôn bất thuận, ngôn bất
thuận tắc sự bất thành – nghĩa là: danh không chính thì nói không xuôi, nói không xuôi thì việc không thành”[12].
Cái danh mà Quý Ly cần ấy, càng ngày phải to hơn khi mà các nội dung đưa ra
ngày càng táo bạo và đi đến việc ông phải tiến hành “thoán đoạt” ngôi vua, để tiện bề
thực thi.
Cơ
sở của nhận định trên, chính là việc Hồ Quý Ly cũng vốn là người xuất thân từ trong lực lượng Nho gia – Bạch diện thư sinh
(theo cách nói của vua Trần Minh Tông) mà ra. Nên cái thuyết
chính danh và tin vào thiên mệnh (ý trời) của Khổng Tử, chắc hẳn ông đã nằm
lòng, và có thể dưới cái óc nhìn có phê
phán của mình Quý Ly đã nhận ra thánh nhân cũng không ủng hộ việc duy trì sự
trung quân thái quá trái luân thường như triều Trần bấy giờ. Khổng Tử từng nói:
“Duy mệnh bất du thường, đạo thiện tắc đắc
chi, bất thiện tắc thất chi hỹ - nghĩa là: mệnh trời không nhất định, thiện thì được, bất thiện thì mất”[13]
hay “Hoàng thiên vô thân, duy đức thị phụ;
dân tâm vô thường, duy huệ chi hoài. Vi thiện bất đồng, đồng quy vu trị; vi ác bất đồng, đồng quy vu
loạn, nhĩ kỳ giới tai – nghĩa là: ông trời không thân riêng ai, chỉ có đức là
trời giúp; lòng dân không có thường, chỉ có ơn là mếm. Làm điều lành cũng không
giống nhau, nhưng kết quả là trị; làm điều
ác cũng không giống nhau, nhưng kết quả là loạn, người phải lấy làm răng vậy”[14].
Một người coi trọng thiên lý, luân thường như Khổng Tử cũng đã nhìn được ngôi báo chỉ vững bền khi mà vua đó hành thiện, thương dân và biết
cai trị giải quyết các khó khăn của quốc gia.
Một
điểm khác cũng khá quan trọng là Hồ Quý Lý đã nhận ra việc đề cao giáo dục
khoa cử và trọng dụng kẻ sĩ chính là
cách giải quyết được được bế tắc của vương triều Trần. Vì Khổng Tử nhận định rằng:
“Hiếu nhân bất hiếu học, kỳ tế giã ngu:
hiếu trí bất hiếu học, kỳ tế giã đãng: hiếu tín bất hiếu học, kỳ tế giã tặc: hiếu
trực bất hiếu học, kỳ tế giã giảo, hiếu
dũng bất hiếu học, kỳ tế giã loạn: hiếu cương bất hiếu học, kỳ tế giã cuồng –
nghĩa là: muốn nhân mà không học thì bị cái che mờ làm ngu; muốn trí mà không
muốn học, thì bị cái che mờ là cao kỳ thái quá; muốn tính mà không muốn học,
thì bị cái che mờ là hại nghĩa; muốn trực mà không muốn học thì bị cái che mờ
là ngang ngạnh; muốn dũng mà không muốn học thì bị cái che mờ là loạn; muốn cương
mà không muốn học thì bị cái che mờ là táo bạo khinh suất”[15]
hoặc ngài đánh giá cao việc dùng người tài nên nói rằng: “Tiên hữu tư, xá tiểu quá, cử hiền tài – nghĩa là: việc để hữu tư xét trước, xá lỗi nhỏ, cất nhắc người
giỏi”[16].
Nên
từ rất sớm Hồ Quý Ly đã chú trọng đến việc
tuyển chọn nhân tài thể hiện ngay trong những nội dung cải cách giáo dục như:
tăng cường đội ngũ quan lại được tuyển
chọn bằng các kỳ thi Thái học sinh. Trong
khoa thi 2.1393, lấy đỗ 30
người; 8.1400, tổ chức thi lấy đỗ 20 người, trong đó có cả Nguyễn Trãi và đặc
biệt là 12.1401, Hồ Hán Thương đã cho Nguyễn Phi Khanh (cha Nguyễn Trãi) làm
Hàn Lâm học sinh, người vốn bị nhà Trần từ chối trọng dụng vì xuất thân thấp hèn; hay việc triều Hồ cũng trọng
dụng lại các nhân vật của triều trước như: Hoàng Hối Khanh, Nguyễn Huy Chu và
Phạm Cự Luận. Những công việc này của Hồ Quý Ly là đã hợp với tự nhiên và ý trời vì đất nước muốn
giải quyết được khó khăn phải dựa vào một
triều đình phong kiến quân chủ quan liêu xuất thân từ khoa bảng. Nên tác giả Hồ
Danh Phiệt đã có lý khi nhận định rằng: “Từ
khống chế đến thủ tiêu bộ máy nhà nước quý
tộc Trần, Hồ Quý Ly không đi theo vết xe đổ của nhà Trần. Ông duy trì bộ
máy nhà nước quân chủ trung ương tập quyền nhưng không tạo dựng một tầng lớp
vương hầu quý tộc theo phương châm “Tôn tử duy thành” như vương triều Trần đã
làm”[17].
Và
trong cuộc cải cách của mình, Quý Ly đã nhanh chóng đi đến việc hoàn thiện chế
độ khoa cử. Theo Đại Việt sử ký toàn thư có ghi nhận: “Xuống chiếu định cách thức thi cử nhân, dùng thể văn bốn kỳ, bãi bỏ
phép viết ám tả cổ văn. Kỳ đệ nhất thi một bài kinh nghĩa, có các đoạn phá đề, tiếp ngữ, tiểu giảng, nguyên đề, đại
giảng, kết luận, từ 500 chữ trở lên; kỳ
thứ hai thi một bài thơ Đường luật, một bài thơ phú cổ thể, hoặc thể Ly tao, thể
Văn tuyển, cũng từ 500 chữ trở lên; kỳ thứ ba thi một bài chiếu theo thể Hán, một
bài chế, một bài biểu dùng thể tứ lục đời Đường; kỳ thứ tư thi một bài văn
sách, lấy kinh, sử hay thời vụ mà ra đề, từ 1000 chữ trở lên. Cứ năm trước thi
hương thì năm sau thi hội, ai đỗ thì vua thi một bài văn sách để định cao thấp”[18]
về sau trên tinh thần của cha mình Hồ
Hán Thương lại một lần nữa điều
chỉnh cho hoàn bị “Phép thi bắt
chước lối văn thể ba trường của nhà Nguyên, nhưng chia làm bốn kỳ, lại có kỳ
thi viết chữ và tính, thành ra năm kỳ”[19].
Nội dung cải cách của Hồ Quý Ly và Hồ
Hán Thương thể hiện được những điểm nổi bậc sau: thứ nhất, đề cao thi cử cốt yếu bỏ lối thi ám tả cổ văn (tránh việc cóp nhặt kinh điển) mà buộc người học phải có óc
tư duy thực tiễn hơn; thứ
hai, đặt thêm nội dung thi làm toán thể hiện một điểm tiến bộ, mà các
thời sau triều Hồ không làm được; thứ ba, kẻ sĩ bấy giờ rất được ưu đãi, vì ở địa
phương được cấp “học điền” để bảo dưỡng người học và hằng năm quan viên phải tiến
cử người tài, ai đỗ kỳ thi Hương
thì được miễn lao dịch, đỗ kỳ thi
ở bộ Lễ miễn tuyển lính …Tất cả đã cho
thấy, Hồ Quý Ly cùng vương triều Hồ đã
thật sự muốn thực thi cái nghiệp
giáo hóa mà Khổng Tử vốn đề cao và cần thiết
trong việc trị nước. Nên chính
Phan Huy Chú khi nhận định về khoa cử giai đoạn này đã viết: “Phép khoa cử đời Trần đến đây mới
đủ văn tự 4 trường, đến nay còn
theo không thay đổi được. Chọn nhân tài bằng văn học không gì hơn phép ấy”[20]
Từ
các điều trên, ta thấy cái chính quyền của họ Hồ đang gây dựng nên đã hợp với quan điểm luân thường của Nho giáo như Khổng Tử từng đề
cập: “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử
- nghĩa là: vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con (Luận ngữ)”[21].
Nhưng do thời gian tồn tại không lâu thì gặp phải sự xâm lược của nhà Minh, nên
việc phát triển triều đình quân chủ quan
liêu đề cao Nho giáo phải đợi đến thời vua Lê Thánh Tông rồi Minh Mạng.
2.3
Toàn bộ nội dung cải cách giáo dục thể
hiện rõ tính dân tộc hợp lẻ trời
Theo
một lẻ tự nhiên, vào buổi ban sơ của dân
tộc khi các hệ thống học thuật tư tương
tưởng của Trung Hoa đã phát triển và đi
đến đỉnh cao, thì dân tộc ta đang trong vòng Bắc thuộc. Nên lần lượt các chính quyền
cai trị phương Bắc đã cố tình
truyền bá Nho giáo để đồng hóa dân tộc
Việt. Song mục tiêu nô dịch nước ta của các vương triều phong kiến Trung Hoa
không thành hiện thực, nhưng dân tộc ta vẫn tiếp thu và kế thừa các giá trị tốt
đẹp của Nho giáo trên con đường phong kiến
hóa của các vương triều độc lập. Cho nên tác giả nhận thấy, đến một lúc nào đó thì các giáo lý được xem là “khuôn
vàng thước ngọc” của Nho giáo Trung
Hoa phải được chắt lọc lại cho hợp với đặc điểm
của dân tộc, của đất nước vốn
không hoàn toàn phụ thuộc vào hệ tư tưởng phương Bắc. cho nên xét thấy, bên cạnh việc từng bước xác lập hệ thống
triều đình phong kiến quân chủ quan liêu xuất thần từ khoa cử, Hồ Quý Ly đã mạnh dạn lên tiếng phê phán sự cố chấp trong việc chỉ quen thuộc lòng kinh điển Nho gia mà không có tư duy độc lập.
Điều đó thể hiện ở một loạt các chính
sách văn hóa, giáo dục đã được Đại Việt
sử ký toàn thư ghi nhận lại (vốn dùng để
làm cơ sở phê phán vương triều Hồ).
Đến
tháng 12 năm 1392, ông cho làm sách Minh đạo gồm 14 thiên dâng lên Nghệ Tông và
được khen ngợi. Về nội dung thì sử cũ chỉ
ghi vài dòng khái lược: “cho Chu
Công là tiên thánh, Khổng tử là tiên sư; ở Văn miếu đặt tượng Chu Công ở chính
giữa, ngoảnh về phương nam, Khổng tử ở phía bên, ngoảnh về phương Tây. Cho sách
Luận ngữ có bốn chỗ ngờ, như Khổng Tử ra mắt nàng Nam Tử, ở nước Trần hết
lương, Công Sơn, Phật Hất gọi, mà Khổng Tử đều muốn đến,…cho Hàn Dũ là đạo Nho,
cho bọn Chu Mậu Thúc, Trình Hiệu, Trình Di, Dương Thì, La Trọng Tố, Lý Diên
Niên, Chu Tử đều là học thì rộng nhưng tài thì kém, không quan thiết đến sự tình,
chỉ chuyên làm nghề lấy cắp văn chương của
người xưa”[22].
Sau đó, lại cho soạn sách Thi Nghĩa (nghĩa của Kinh Thi) bằng quốc âm dùng để dạy
hậu phi và cung nhân. Điều đáng lưu ý là ông không dùng lời tựa của Chu Tử mà tự
tại soạn bài tựa khác có lẽ để thể hiện ý kiến của mình. Đến năm 1395, Quý Ly lại
cho chép thiên Vô dật và dịch ra chữ quốc âm
dùng để dạy vua.
Việc
bình luận các sự kiện này của Hồ Quý Ly đã được
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và đưa ra nhiều quan điểm khác nhau (đôi
khi là đối lập nhau). Song người viết nhận thấy rằng các việc làm trên của ông, thể hiện sự tinh tường
về lý thuyết Nho giáo và muốn làm việc tách dòng để dân tộc không phải chịu sự
nô dịch trong vòng tư tưởng của phương Bắc. Bởi Khổng Tử cũng từng dạy rằng: “Học nhi bất tư tắc võng, tư nhi bất học tắc
đãi – nghĩa là: học mà không nghĩ thì mờ tối
chẳng hiểu gì, nghĩa mà không học thì khó nhọc, mất công không”[23],
nên trong hoàn cảnh thực tế của cuối thời Trần, cái suy nghĩ của ông đã đi đến
việc đánh giá lại hệ thống giá trị thực tế của Nho gia đối với dân tộc. Nên đã
có hành động phê phán các người đời sau
Khổng Tử cố tình tô điểm thêm ý mình hay
luôn mượn dẫn kinh điển mà thiếu tính thực hành. Sự kiện An Phủ sứ lộ Thanh Hóa
là Nguyễn Cảnh Chân dâng thư xin học theo việc làm cũ của đời Hán, Đường Trung
Hoa để cải tạo đất nước, Quý Ly khi ấy
đã phê rằng: “Biết được mấy chữ mà nói chuyện Hán Đường, thế gọi là người câm hay nói, chỉ tổ người cười
thôi”[24],
đã cho thấy cái thiên kiến không ưa việc trích dẫn tích xưa mà dùng cho việc ngày nay, hay lấy kế sách phương Bắc mà dùng cho nước Nam thì thật còn nhiều bất
cập.
Việc
sử dụng chữ viết quốc âm để chép sách kinh điển, diễn giảng ý kiến của mình rồi
dạy cho các lực lượng quý tộc trong triều đình đã thể hiện tinh thần muốn thoát
khỏi hệ tư tưởng Tống Nho, nhưng vẫn giữ được những giá trị kinh điển của của Nho giáo thời khởi thủy (vốn chưa bị biến hóa
để đi đến huyền diệu). Điều đó thể hiện thứ nhất, ở việc không xem trọng các
tôn giáo Đạo và Phật mà vẫn đề cao Nho giáo (hoàn thiện hệ thống thi cử và dịch
kinh sách Nho gia); và thứ
hai, muốn quay về đầu nguồn tư
tưởng nên mới đề cao Chu Công (tức Chu
Công Đáng, con thứ tư của Chu Văn Vương) vốn là người được Khổng Tử kính trọng
cảm thán rằng: “Ta suy sụp lắm thay! Từ
đây rồi ta không còn nằm mộng thấy Chu Công”[25]
vì “Chu Công phân phong cho các chư hầu
xong rồi lập tức chế ra lễ nhạc, đấy là một sự kiện lớn được các Nho gia ca tụng”[26].
Nên tác giả Nguyễn Đăng Thục đã đánh giá cao việc làm trên của Hồ Quý Ly vì: “lấy Khổng Tử là bắt đầu của dòng Nho học
thì tức phản với chính tinh thần truyền thống của nó rồi vậy”[27].
Bên
cạnh đó, cũng thấy rằng Quý Ly cũng thể hiện rõ bị ảnh hưởng của tinh thần luân
thường Nho giáo trong việc tích cực chế tác lễ nhạc cho triều đình phong kiến dân
tộc như việc Chu Công đã làm mà Khổng Tử ngưỡng mộ và tiếp nối. Theo Đại Việt sử
ký toàn thư thì dưới triều Hồ đã: “Đặt nhã nhạc, lấy con các quan văn làm Kinh
vĩ lang, con các quan võ làm Chỉnh đốn lang, học tập điệu múa văn và võ”[28]
hay “Tháng 8, Hán Thương đắp đàn Giao ở Đốn
Sơn để làm lễ tế Giao; đại xá cho thiên hạ”[29]
về sau lại cho dựng thêm Thái miếu: “ở các lăng Thiên Xương, để thờ cúng tổ khảo,
sớm chiều cúng tế. Lại dựng miếu ở các lăng Bào Đột, Linh Nguyên để thờ cúng
tiên tổ. Ở kinh thành dựng Đông thái miếu
để thờ cúng tôn thái họ Hồ, Tây thái miếu để thờ họ ngoại là Trần Minh Tông và Trần Nghệ
Tông”[30].
Tất cả cho thấy họ Hồ rất coi trọng lễ và nhạc vì đó được xem là một trong những
yêu cầu của bậc quân vương và hợp với luân thường đạo lý. Khổng
Tử từng nói: “Lễ tiết dân tâm, nhạc hòa dân thanh, chính dĩ hành chi, hình dĩ
phòng chi, lễ nhạc hình chính, tứ đạt nhi bất bội, tắc vương đạo bị hỹ - nghĩa
là: lễ để tiết chế lòng dân, nhạc để hòa thanh âm của dân,
chính trị để định việc làm, hình pháp để ngăn cấm điều bậy. Lễ nhạc hình chính,
bốn việc ấy đạt cả, không trái điều nào thì vương đạo đủ vậy (Nhạc ký)”[31]
hay để đề cao lễ nhạc ngài nhấn mạnh: “Lễ nhạc quan hệ đến luân lý, phong tục và
chính trị rất mật thiết lắm, cho nên các nho giả tìm cái căn nguyên ở trong đạo
tự nhiên của trời đất, cho lễ là cái trật tự của trời đất, nhạc là cái điều hòa
của trời đất: Nhạc giả thiên địa chi hòa giã, lễ giả thiên địa chi tự giã (Lễ Ký)”[32].
Như
vậy với những luận chứng trên đã cho thấy, yếu tố luân thường Nho giáo đã có
tác động sâu sắc đến cái nhìn của Hồ Quý Lý, dẫn đến những nội dung cải cách về mặt tư tưởng, văn
hóa, giáo dục hay việc buộc phải
“thoán đoạt” ngôi vua Trần là nhằm giải quyết khó khăn của đất nước và từng bước khẳng định cái
riêng của dân tộc, hướng đến cái luân thường phù hợp với dân tộc. Chỉ có
những người không đứng trên cái nhìn của
dân tộc để soi rọi về luân thường mới đánh giá Hồ Quý Ly và vương triều
của ông làm những việc trái với luân thường
Nho giáo.
III.KẾT LUẬN
Qua
toàn bộ nội dung của bài viết trên, chúng ta nhìn thấy được rằng: công cuộc cải
cách của Hồ Quý Ly vào cuối thế kỷ XIV đến những năm đầu thế kỷ XV cũng chịu sự
tác động không nhỏ của yếu tố luân thường Nho giáo. Nhưng sự tác động đó không
hoàn toàn sáo rỗng, giáo điều, mà có tính chọn lọc, biết dựa vào sự vận động và
phát triển tự nhiên của dân tộc. Từ đó, chúng ta có thể thấy được điểm mới và
điểm tích cực của cuộc cải cách này.
Về
điểm mới, tư tưởng luân thường đã làm cho Hồ Quý Ly thấy được cần phải xây dựng
một nhà nước quân chủ quan liêu, chủ yếu dựa vào hệ thống quan lại từ khoa cử.
Vì đến cuối thế kỷ XIV, thì vai trò của một triều đình phong kiến tông tộc, cụ
thể là lực lượng quý tộc họ Trần đã mất vai trò lịch sử. Nên triều Hồ thành lập
là dựa trên quan điểm “tam cương” với quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ có trật
tự và chú trọng đào tạo rồi sử dụng nhân
tài.
Về
điểm tích cực, được thể hiện rõ qua việc dười lúc còn làm quan thời Trần, đến
khi hoàn thành việc “chính danh” lên ngôi vua triều Hồ, Hồ Quý Ly đã cố gắng
hoàn thiện chế độ thi cử tiến bộ, làm nền tang cho các vương triều độc lập về
sau như các nhà, Lê, Mạc, Nguyễn. Tiếp đến, Quý Ly còn mạnh dạng hướng dòng tư
tưởng Nho gia của Đại Việt lúc bấy giờ đi theo sự phát triển nặng tính dân tộc
và có óc phê phán các giá trị kinh điển của Nho giáo. Cái sự học có dựa vào
“làm tính”. Biết khen chê các nội dung của người xưa, biết quay về với cái gốc
của đạo Nho, không chịu phụ thuộc hoàn toàn vào tư tưởng của Trung Hoa là một
điểm tiến bộ vượt bậc. Từ đó, cũng xin đưa ra một số ý kiến để các nhà khoa học
tiếp tục nghiên cứu.
Thứ
nhất, cần phải tiếp tục nghiên cứu và phân tích tiếp nội dung tư tưởng
của Hồ Quý Ly về tính Nho giáo và tính dân tộc, để qua đó
đi đến sự đánh giá về nhân vật lịch sử này đúng hơn, chân thực.
Thứ
hai, Nho giáo dưới thời kỳ cuộc cải
cách của họ Hồ đã phát triển đến mức độ nào ? đặc điểm là gì và cần
làm rõ cái nhìn về những giá trị Nho giáo thời kỳ đó tác động
như thế nào đến các giai đoạn
sau.
Cho
nên, trong tương lai, cần phải có thêm
các cuộc hội thảo, tọa đàm khoa học
nghiêm túc và chuyên sâu để đem vấn đề Nho giáo Việt Nam dưới thời Hồ ra tiếp tục nghiên cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2010), Hán Việt từ điển, NXB Văn hóa thông tin,
HN
2. Doãn Chính (2009), Tự điển triết học Trung Quốc, NXB CTQG,
HN.
3. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí – Khoa mục
chí, tập 2, NXB KHXH.
4. Trần Trọng Kim (1971), Nho giáo, quyển thượng, NXB Bộ giáo dục
– trung tâm học hiệu, Sài Gòn.
5. Ngô Sĩ Liên và các sử thần nhà
Lê (2004), Đại Việt sử ký toàn thư, tập
II, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
6. Hồ Danh Phiệt (1997), Hồ Quý Lý, NXB Văn hóa – thông tin, HN.
7. Nguyễn Tôn Nhan (1998), 100 Nhân
vật nổi tiếng nhất văn hóa Trung Hoa, NXB Văn học, HN.
8. Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 5, NXB
TP.HCM.
9. Nguyễn Q.Thắng – Nguyễn Bá Thế
(2006), Tự điển nhân vật lịch sử Việt Nam
(Bộ mới), NXb Tổng hợp TP.HCM.
10. Viện sử học (2007), Lịch sử Việt Nam tập III,
Thế kỷ XV – XVI, NXB KHXH, HN.
Tham luận tại Hội thảo Khoa học Quốc tế "Luân Thường Nho Giáo Dưới Góc Nhìn Xuyên Văn Hóa" tổ chức vào 1/6/2013
[3] Doãn Chính (2009), Tự
điển triết học Trung Quốc, NXB CTQG, HN, tr 347.
[12] Trần
Trọng Kim (1971), Nho giáo, quyển thượng, NXB Bộ giáo dục – trung tâm học hiệu,
Sài Gòn, tr 128.
[17] Hồ Danh Phiệt
(1997), sđd, HN, tr 188.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét