Chủ Nhật, 26 tháng 1, 2014

NGÀY TẾT NGHĨ VỀ TỤC UỐNG TRÀ CỦA NGƯỜI VIỆT NAM




NGUYỄN SAN HÀ
Ở đất nước Việt Nam xinh đẹp của chúng ta, từ vùng trung du miền núi phía Bắc cho đến dọc theo dãy Trường Sơn huyền thoại và đến tận cùng vùng cao nguyên Lâm Đồng, ai cũng có thể bắt gặp một màu xanh bạt ngàn của các đồi trà xanh tươi và quen thuộc. Theo nghiên cứu của một số nhà khoa học Việt Nam và nước ngoài, thì nước ta được ví như là “chiếc nôi”  của cây trà trên thế giới; khảo cổ học cho biết trong vùng văn hóa Đông Sơn – Phú Thọ của các vua Hùng (niên đại khoảng 2.500 năm) đã thấy được dấu vết hóa thạch của lá và cây trà, họ còn hoài nghi loài cây nay có thể đến với người Việt cổ sớm hơn những gì tìm thấy được.
Do có sức sống dẻo dai, chịu được độ lạnh và trồng được ngay cả trên đất đồi núi chua nghèo của cây trà, nên tại các vùng cao của Việt Nam, vốn là môi trường lý tưởng cho việc trồng và phát triển của trà. Ngược lại, việc trồng trà ở các khu vực này cũng góp phần vào việc phát triển thế mạnh về kinh tế ở các vùng cao nguyên và miền núi do có nhiều giá trị về chế biến tiêu dùng cũng xuất khẩu.  
Theo các ghi chép trong thư tịch cổ của Trung Quốc đã có đề cập đến giá trị bổ dưỡng và dược tính của cây trà như trong cuốn Thần Nông bản thảo kinh: “Trà vị đắng, uống vào làm cho người ta cảm thấy nhẹ nhõm, thanh thản, sáng mắt, tỉnh táo…”, hoặc Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân (triều Minh) có ghi rằng: “trà vị đắng, tính hàn, hạ hỏa rất tốt,…” Những ghi nhận này rất hợp với kết quả phân tích của nền y học ngày nay. Các phân tích y học hiện đại đã chứng minh được trà xanh có chứa nhiều các hoạt chất sinh học: tiêu biểu như polyphenol, các alkaloid, các aminoaxít, vitamin, flavonid, flour, tanin, saponin...tất cả hoạt chất trên  giúp cho cây trà có khả năng kích thích lao động và đem lại niềm vui, có lợi ích cho hô hấp và tim mạch, có khả năng ức chế. Đặc biệt trong một nghiên cứu gần đây của bệnh viên Mayo (Mỹ) cho biết trà xanh còn có khả năng ngăn ngừa sự phát triển của các tế bào ung thư và quá trình di căn khối u, vì có chứa hoạt chất dược tính mang tên ECGC (epigallocatechin galat). Bên cạnh đó, hoạt chất này còn có khả chống ôxy hóa mạnh gấp 100 lần so với vitamin C và gấp 25 lần so với vitamin E. Tất cả điều đó thật sự làm thu hút nhiều người sử dụng trà và các sản phẩm chế biến từ trà xanh, kể cả phái đẹp.
Từ những đặc tính ưu việt trên của cây trà, nên từ rất sớm loại cây này được nhân dân Việt Nam pha với  nước sôi dùng để uống giải khát, thông qua đó cũng hình thành nên tục uống trà của người Việt. Trong thời phong kiến, trà xuất hiện ở chốn cung vua phủ chúa để phục vụ cho nhu cầu hưởng lạc  của lực lượng trí thức nho giáo; sớm hơn nữa trà còn là một thức uống mang nhiều giá trị đối với những người thoát tục, tu tiên ẩn dật trong các chùa và đạo quán. Theo thời gian, những thông tin về dược tính bổ ích của cây trà đã được lan truyền khắp nơi, cây trà được nhân dân ta trồng ngày một nhiều hơn dựa vào việc cải tiến kỹ thuật canh tác nên lần hồi loại thức uống hữu ích và tiện lợi này đã phục vụ cho hầu hết mọi người, mọi tầng lớp từ lao động đến trí  thức, từ vùng nông thôn, trang viên đến  các nơi núi non hiểm trở của miền ngược. Việc pha nước trà dùng để uống theo thời gian đã trở thành một nét đẹp trong văn hóa dân tộc đã đi vào trong các bản đồng dao hay ca dao , tục ngữ thân quen như:
Chè ngon, nước chát xin mời
Nước non non nước, nghĩa người chớ quên
(cao dao Việt Nam)
Hay nhà thơ trào phùng Tú Xương đã đề những vần thơ để nói đến sự cuốn hút của thú uống trà:
Một trà, một rượu, một đàn bà
Ba cái lăng nhăng nó hại ta.
Chừa được cái gì hay cái nấy,
Có chăng chừa được rượu với trà!
Qua đó cho ta thấy được tục uống trà của người Việt cũng từng bước được nâng lên thành một nghệ thuật mang đậm bản sắc văn hóa, giống như văn hóa trà Trung Quốc hay trà Đạo của người Nhật (du nhập vào nước này khoảng thế kỷ VII). 

Thứ nhất là nước nấu trà phải được chọn lọc kỹ lưỡng, thông thường người Việt thường lấy nước ở giếng làng vốn trong mát và sử dụng thường xuyên; có những nơi cầu kỳ hơn thì họ hứng nước sương  đọng lại trên lá cây, thường là lá sen để đem về nấu nước. Có nơi họ dùng nước giếng với nước mưa (tục gọi là nước vô căn – không nguồn) pha lại với nhau để tăng thêm độ tinh khiết hoặc thiêng liêng mà  dân gian thường gọi là nước âm dương. Khi nấu thì phải dùng bếp than hồng (vì củi khô dễ làm bốc mùi ảnh hưởng đến hương trà), nước sôi tâm vừa đủ thì dùng pha các loại trà xanh, trà nụ; còn các  loại trà ướp hương thì phải để nước sôi vừa tới để pha. Vì nếu nước chưa đủ độ sôi sẽ không làm chín và giảm đi vị ra từ trà; còn nếu để sôi quá độ thì trà sẽ nồng hay còn gọi là cháy trà uống không đậm đà.
Thứ hai, là việc chọn loại trà để pha. dân gian ta thường dùng các loại trà nụ, trà tươi và trà xanh để pha lấy nước uống. Thường người Việt hái các đọt trà tươi đem pha với nước sôi mà uống, hoặc hái lấy nụ hoa trà rang trên chảo rồi nấu uống (nên tục gọi là trà nụ) rất được ưa dùng. Cách uống trà tươi và trà nụ theo một số nhà nghiên cứu cho biết chỉ có ở Việt Nam. Bên cạnh người Việt còn uống trà xanh, tức là khi hái các lá, búp trà ngon về họ sao trên chảo nóng, phơi hay sấy rồi pha với nước sôi thu được thứ nước trà màu xanh rất đẹp (tục là lục trà) vốn được người dân dùng phổ biến.
Từ khá lâu người Việt Nam nói riêng cũng như nhiều dân tộc khác trên khu vực cũng sớm biết tính năng dễ hút hương của cây trà nên họ đã đem nó ướp với nhiều loài hoa khác nhau như: hoa sen, nhài, hoa ngâu, hoa cúc, hoa lan…để thu được loại trà mang mùi hương của loài hoa nó tiếp xúc. Dưới thời phong kiến, vua quan thường bắt cung nữ mang những túi mỏng chứa loại trà ngon men theo các bờ hồ trong cung, bỏ trà vào các búp sen để qua đêm; đến khi thu hoạch thì có được loại trà có hương sen thơm ngào ngạt được nấu với loại nước sương đọng trên lá sen đem dâng lên vua mà dân gian đã đặt cho cái tên thật khiêu gợi “trinh nữ trà”. Bên cạnh đó, ở những vùng vốn có tiếng về trà như Thái Nguyên, Phú Thọ có “chè mộc”, “chè sao suốt” hoặc “chè móc câu”. Gọi là “chè sao suốt” vì lá chè sau khi hái, được sao bằng tay trong chảo lớn với ngọn lửa liên tục, lửa phải đều không to không nhỏ. Gọi “chè móc câu” vì cánh chè sau khi sao xong sẽ quăn lại giống hình cái móc câu. Gọi là “chè mộc” bởi vì là loại chè không ướp hương hoa, giữ cái nguyên chất của cây trà.
Thứ ba, bộ dụng cụ pha trà thường gồm: bôi (chén uống trà) thường được làm bằng đất nung kích thước không quá lớn (thường bằng cỡ hột mít). Còn bình (có nơi gọi là ấm trà) thì có kích thước lớn nhỏ tùy vào sở thích của người dùng, cũng được làm bằng đất nung và bên ngoài có nhiều nơi trang trí hoa văn rất tinh xảo làm tăng thêm giá trị của bình. Thông thường người sành trà dùng loại bình chuyên (để pha trà chính) và phối hợp với bình tống (bình chuyên đổ vào bình tống rồi phân ra các chén quân).
Trước khi pha trà thì dùng nước sôi để tráng chén và bình để làm nóng và vệ sinh cho sạch sẽ. Lượng trà cho vào ấm phải vừa đủ (cho ít quá thì nhạt, còn cho nhiều quá thì đắng chát). Lần đầu rót nước xâm xấp mặt trà rồi đổ đi để “rửa trà”: Tửu tam trà nhị (rượu chén đến thứ ba mới bắt đầu ngấm, trà nước thứ hai mới ngon); cho nên khi tiếp khách, phải rót trà ra chén tống rồi sau đó mới chia ra các chén quân. Lượt kế cho nước gần đầy bình rồi đậy nắp lại, xong mới rót thêm lên trên nắp bình một ít nước nóng để lấp kín cái lỗ thông hơi để giữ được hương trà. Bạn cùng uống trà được gọi là “quần anh”, tùy theo nhu cầu của buổi trà mà có số lượng khác nhau không nhất định.
Điểm qua trình tự cụ thể của nghệ thuật trà Việt, chúng ta có thể nhận thấy được việc uống trà của người Việt không quá cầu kỳ, đòi hỏi những chuẩn mực quá khó khăn từ lúc pha đến khi uống. Theo dân gian thì nghệ thuật pha và uống trà Việt có thể gối gọn trong câu: Nhất thủy, nhì trà, tam bôi, tứ bình, ngũ quần anh là đã đầy đủ. Tất cả các tiêu chí trên đã cho  thấy được việc dùng trà tuy là một nghệ thuật tao nhã nhưng lại dễ đáp ứng cho đủ mọi tầng lớp trong xã hội Việt Nam từ xưa đến nay. Từ vua quan đến thứ dân ai cũng có thể hưởng thụ thú vui tao nhã này. Việc dùng trà của người Việt bộc lộ sự giản dị, bình dân và tinh tế trong cách suy nghĩ cũng như lối sống. Điểm chính trong nghệ thuật pha và uống trà là cốt sao có một chén trà ngon để bắt đầu buổi hàn huyên tâm sự. Nên nghệ thuật trà Việt không hàm chứa trong nó những triết lý quá cao xa từ công đoạn pha chế đến khi uống quá cầu kỳ như người Nhật. Trong trà Đạo của họ đòi hỏi phải hội tụ đủ “Hòa – Kính – Thanh – Tịnh” một trạng thái hòa hợp giữa người pha, người uống và không khí cảnh vật xung quanh kể cả thái độ; hay “Trà thiền nhất thể” (uống trà và ngồi thiền là một)  của Trung Quốc. 
Cái chất đặc sắc của trà Việt có lẻ chính là ở chỗ tinh tế  để dẫn đến sự  thân thiện, đơn giản nhưng thiết thực giống như tính cách của người Việt Nam. Thông qua chén trà để mở đầu câu chuyện, người ta có thể mở lòng để giải bày tâm sự, trút hết mọi ưu phiền, oán hận trong cuộc sống. Chén trà Việt như một chiếc cầu nối và duy trì mối quan hệ tương hỗ giữa con người với con người. Hơn thế nữa, khi ta hớp một ngụm trà không khỏi làm ta thêm minh mẫn đầu óc, tinh thần được kích thích nên sản khoái lao động và tư duy, nhanh chóng giải quyết được nhiều vướng mắc trong xã hội…qua đó được việc uống trà đã tạo cho người ta có chút thời gian suy nghĩ và tư duy về thời cuộc, thấu hiểu nhau hơn và bình tĩnh điều tiết cách ứng xử với môi trường xung quanh.
Từ những giá trị trên mà trà đã sớm được đưa vào các buổi hội hè, đình đám và tế lễ để góp thêm phần trang nghiêm, thiêng liêng đối với các bậc thánh, thần, tiên, phật. Nên thông thường trong các nghi thức tế tự đều có  nghi thức dâng trà…Nổi bật hơn chính là ý nghĩa của tục uống trà trong ngày tết cổ truyền của dân tộc. Quan niệm dân gian đã truyền nhau câu nói: “khách đến nhà không trà cũng rượu” để cho thấy việc dùng trà như là một tiêu chí quan trọng thể hiện cái “lễ” của người Việt, sự hiếu khách. Nhưng so ra trà lại dễ “hành lễ” hơn rượu, vì chỉ cần bộ ấm chén và chút trà ngon là có thể đối ẩm “ta với ta”; trong khi muốn uống rượu thì phải có “mồi ngon, bạn hiền”. Đặc biệt trước bao việc phải lo toan của thời cuộc, của cuộc sống kim tiền, người Việt ta không có mấy thời gian để quay quần bên nhau đối ẩm cạnh ấm trà. Có thể cũng từ đó, mà cái văn hóa gắn bó, chia ngọt sẻ bùi của chúng ta dần dân phai nhạt; nhiều phép tắc lễ nghĩa vốn được xem là chuẩn mực xã hội bị mai một; con người ngày một xa cộng đồng.
Một điểm đáng lưu ý hơn, là trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh “hội nhập” với thế giới, đã không ít trào lưu uống trà ngoại lai tràn vào Việt Nam góp phần tạo thêm sự phong phú cho cách thức sử dụng loại thức uống bổ dưỡng này. Song cũng phải thừa nhận một thực trạng là nghệ thuật uống trà của người Việt dần dần biến tướng như: người ta dùng trà chỉ để pha với nước có bỏ nước đá vào (tục gọi là trà đá) đã làm mất đi sự tinh tế của việc uống trà, giờ đây trà chỉ có tính chất tạo màu; hay dùng trà theo hướng công nghiệp như trà Lipton đóng gói với đủ loại hương trái cây (như bánh kẹo) hoặc trà xanh đóng gói (có chất bảo quản); trà thanh nhiệt cung đình;…kéo théo là một loạt các loại cửa hàng bày bán đủ loại trà trên và còn xuất hiện thêm một số loại biến thể như: “trà chanh chém gió”, “trà sửa chân trâu” vốn chưa thấy được sự bổ dưỡng nhưng tác hại thì đã được báo đài truyền thông lên tiếng khá nhiều. Nhìn vào thực trạng đó, sẽ không khỏi khiến chúng ta đau lòng trước việc nét đẹp và sự tinh tế trong nghệ thuật trà Việt sẽ bị mai một hay bị lai tạp một cách vô tội vạ là một viễn cảnh không xa ở Việt Nam. Từ các hiện tượng trên đòi hỏi chúng ta cần phải khôi phục lại nghệ thuật uống trà tết của ông cha vốn còn nhiều giá trị trong cuộc sống cộng đồng, một tiêu chí gắn kết dân tộc, một kho tàng gìn giữ và phát huy những tố chất đẹp của con người Việt Nam.
 
 Tháng 1.2014

Thứ Sáu, 3 tháng 1, 2014

ĐẶC ĐIỂM TẾT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM




                     
                                                                                                Nguyễn San Hà

I.                   ĐẶT VẤN ĐỀ

Trước cảnh sống ở đô thị nhộn nhịp với bao công việc và lo toan. Mỗi người trong chúng ta khó mà biết thời gian trôi đi như thế nào ? Thế nhưng mọi việc như dừng lại, mọi người đều thấy ngạc nhiên khi cảm nhận tiết trời thay đổi và phát hiện ra đã sắp hết năm. Tết đã đến rồi! Ai ai cũng bắt tay vào chuẩn bị cho một cái tết cổ truyền.
Tết cổ truyền ở Việt Nam có một ý nghĩa thật thiêng liêng với tất cả mọi người. Vậy cái gì đã làm cho tết có ý nghĩa thiêng liêng đó ? Bằng những nét tiêu biểu trong văn hóa Việt Nam về lễ tết, tôi mong muốn sẽ giúp các bạn trả lời được câu hỏi trên, qua bài viết này.

II.               NỘI DUNG

Theo tiến sĩ Lê Văn Chưởng nhận định: “Tết Nguyên Đán biểu hiện mối quan hệ của người Việt với  thiên nhiên trong tinh thần văn hóa nông nghiệp, với gia tộc và xóm làng trong tính cộng đồng dân tộc, với niềm tin thiêng liêng cao cả trong đời sống tâm linh”[1]. Như vậy thấy được tết cổ truyền của dân tộc những yếu tố văn hóa thật độc đáo thể hiện mối quan hệ của con người với thiên nhiên, con người với cộng đồng và tín ngưỡng tâm linh. Các mối quan hệ ấy được khắc họa rất rõ trong phong tục lễ tết của dân tộc.

2.1  Biểu hiện mối quan hệ của người Việt với thiên nhiên:

Tết cổ truyền còn được gọi là Tết Nguyên Đán (Nguyên là bắt đầu. Đán là buổi sớm mai) với nghĩa là “tết bắt đầu năm, mở đầu cho một năm mới với tất cả mọi cảnh vật đều mới mẻ đón xuân sang”[2]. Tết được tính theo âm lịch, bắt đầu vào tháng giêng (hay tháng Dần theo lịch can chi của Trung Hoa). Thời gian này vào đúng dịp sản xuất nông nghiệp đã kết thúc, mọi người được nghĩ ngơi. Trước bị “Bắc thuộc”, “năm mới ở phương Nam bắt đầu từ tháng tý”[3], về sau chịu ảnh hưởng của người Hoa mới lấy tháng Dân. Nhưng theo Toan Ánh, tết vào tháng  Dần là phải, “vì lúc đó mùa đông vừa qua, tiết lạnh vừa hết, ngày xuân ấm áp tới, hoa cỏ đua tươi khiến cho con người cũng hầu như biến đổi cả tâm hồn sau một năm làm ăn vất vả”[4]. Điều này cho thấy, ngay trong việc chọn thời gian để tổ chức lễ tết lớn nhất trong năm (tết cả), ông cha ta cũng dựa trên tinh thần văn hóa nông nghiệp bao đời.
Khoảng thời gian nông nhàn, mọi nơi đều tập trung vào việc chuẩn bị tết. Nên mọi người quen gọi nhau rằng: “đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi”. Cho thấy tục tổng vệ sinh từ nhà ra vườn để đón tết. Việt Nam ta lại là xứ nhiệt đới, nên mỗi mùa đều có cây trái đặc trưng, mỗi vùng đều có những hoa quả đặc sản. Nhưng chỉ đến mùa xuân thì không khí ấm áp, nên cây trái cũng đua nhau mà tươi tốt. Nên trong mỗi gia đình người Việt đều có tục trưng mâm ngũ quả (ngũ là 5, nhưng con số này chỉ có tính ước lệ) trên bàn thờ tổ tiên. Mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên xung quanh được thể hiện rõ qua các loại trái cây được trưng bày trong mâm ngũ quả.
Với khí trời ngày tết vẫn “nghe rét mướt luồn trong gió”, nên mâm ngũ quả miền Bắc thường có: chuối xanh, bưởi vàng, quýt hoặc cam đỏ, phật thủ xanh ngọc, hồng xiêm nâu,…Tất cả đều là trái còn xanh, và chín dần trong ba ngày tết, bên cạnh cành đào hồng, để cầu mong an khang thịnh vượng.
Với một khí trời ấm áp hơn miền Bắc và tư duy thực tế từ thời mở cõi. Mâm ngũ quả miền Nam theo tiêu chí “cầu, dừa, đủ, xoài” hoặc có thêm “sung túc” với nghĩa là năm mới cầu mong tài lộc được đầy đủ, sung sướng.
Tóm lại, những phong tục trên, tuy có sự khác biệt theo vùng miền. Nhưng tất cả đều biểu hiện mối quan hệ của người Việt với thiên nhiên trong tinh thần văn hóa nông nghiệp.

2.2  Biểu hiện mối quan hệ của người Việt với mọi người trong cộng đồng

Việt Nam trước vốn là một nước thuần nông, nên trong cư xử giữa con người với con người trong cộng đồng vẫn đặt nặng chữ “tình” (văn hóa trọng tình). Thể hiện rõ hơn, khi không khí tết tràn về mọi ngõ hẽm, góc phố, thì mối quan hệ con người với gia đình, làng xóm hiện ra rõ hơn khi nào hết.
Cứ khoảng 27 tháng chạp (tháng 12 âm lịch) mọi nơi đều có tổ chức chợ tết, và để mọi người mua sắm đồ dùng trong ngày tết. Nhưng việc đi chợ tết “không những chỉ để mua bán, vui chơi, thưởng ngoạn mà còn tìm đến tọa độ tình cảm cộng đồng, rủ nhau đi chợ Tết”[5]. Thể hiện một ý nguyện thắt chặt thêm mối quan hệ cộng đồng. Đặc biệt Trần Ngọc Thêm còn nhận định: “Chợ tết  là thước đo sự ấm no của cộng đồng trong năm”[6], đã cho thấy chợ tết thật sự là biểu tượng của sự thịnh vượng, an bình và sung túc ở các cụm dân cư.
Nét đặc biệt của tết xưa là sum họp. Ai đi đâu thì tết đến cũng về sum họp gia đình, thăm họ hàng, quê hương. Trong gia đình người Việt không chỉ có cha mẹ mong con, anh chị em mong nhau, đến cả hàng xóm cũng hỏi thăm, nếu có người về thì cũng chia sẽ niềm vui ấy.
Dù cuộc sống hiện nay đã làm thay đổi đi nhiều phong tục tết cổ truyền. Song “một trong những những điều làm ngày tết có ý nghĩa, khiến cho ai cũng đẹp lòng, vui tươi, phấn khởi là những lời chúc tết”[7]. Từ đêm Giao thừa, gia chủ có tục kiêng người lạ đến chơi, chỉ đón người nhẹ vía, hợp tuổi để xông nhà (đạp đất) đầu năm. Người được chọn ấy khi bước vào nhà cũng mang đến những lời chúc mừng gia chủ như: vạn sự như ý; tấn tài tấn lộc; phúc như Đông Hải, Thọ tỷ Nam Sơn;…Dân gian ta tin rằng, được như thế thì gia đình sẽ được điều hên đến viếng cả năm.
Sáng mùng một sau khi các cụ làm lễ tổ tiên xong, ngồi ở nhà thờ thì con cháu đến lạy mừng chúc tết. Những lời chúc ý nghĩa mang theo những cầu mong cho sức khỏe, điều hên đến với ông bà, cha mẹ được thể hiện một cách đậm đà tình cảm. Bên cạnh đó, con cháu thường dân lên các cụ một món quà tết như bánh trái, hoặc một món tiền đặt trong một bao giấy hồng. Tiền này gọi là tiền mở hàng đem lại may mắn cho các cụ. Dĩ nhiên các cụ cũng mở hàng lại cho con cháu bằng tiền mừng tuổi. Điều đặc biệt là tiền mừng tuổi “bao giờ cũng có tiền lẻ, có ý là tiền đó sẽ sinh sôi nảy nở thêm nhiều”[8] và “người ta thường giữ cất đi, ít khi lấy ra tiêu dùng trừ trường hợp bất đắc dĩ”[9]. Sau đó, mọi người trong nhà lại “rồng rắn” từng đoàn đi khắp nơi để chúc mừng họ hàng, bà con thân tộc, người quen,…
Như vậy, những nét đẹp trong sinh hoạt chợ tết, sum họp gia đình và tục chúc nhau đầu năm đã làm cho lễ tết cổ truyền Việt Nam có một ý nghĩa quan trọng với mọi người. Qua đó, cũng thể hiện phong phú và đặc sắc mối quan hệ của người Việt với gia tộc, xóm làng, cộng đồng,…

2.3  Biểu hiện niềm tin thiêng liêng cao cả trong đời sống tâm linh người Việt.

Tết đến cũng là lúc con người có thời gian hướng về với cuộc sống tâm linh, những niềm tin tín ngưỡng của người Á Đông. Thời gian lễ tết diễn ra có thể tính từ lúc đưa ông Táo về trời (23 tháng chạp) đến lễ đốt vàng (hay hóa vàng – mùng 4 tháng giêng). Trong khoảng thời gian này nhất nhiều hoạt động tâm linh và tín ngưỡng mang tính đa thần được diễn ra.
Tiểu biểu là trong đêm Giao thừa (vì Tết Nguyên Đán bắt đầu từ lúc Giao thừa) có nghĩa là cũ giao lại, mới tiếp lấy. Chính vì ý nghĩa ấy nên hàng năm vào lúc giao tiếp giữa hai năm cũ mới này, có lễ “trừ tịch”.
Theo Toan Ánh, lễ “trừ tịch là giờ phút cuối cùng của năm cũ sắp bắt qua năm mới, giữa giờ Hợi ngày 30 hoặc nếu tháng thiếu, thì ngày 29 tháng chạp năm trước và giờ Tý ngày mồng một tháng giêng năm sau”[10]. Ý nghĩa của lễ này là “đem bỏ đi hết những điều xấu dở cũ kỹ của năm sắp qua để đón những cái mới mẻ tốt đẹp của năm mới sắp đến…Lễ trừ tịch theo người Tàu, còn là lễ khu trừ ma quỷ”[11]. Do theo quan niệm mỗi năm có một ông hành khiển coi việc nhân gian, hết năm thì thần nọ bàn giao công việc cho thần kia. Nên lễ trên còn có ý nghĩa là “tống cựu nghinh tân”. Bên cạnh đó người ta còn tin giúp việc cho quan hành khiển là vị một vị phán quan chuyên việc ghi chép, nên trong phần lễ cũng không được quên người này. Sau đó là gia chủ khấn Thổ công, tức vị thần cai quản trong nhà (thường gọi là Đệ nhất gia chi chủ), để cầu xin điều may mắn.
Đặc biệt khi vào bất cứ gia đình Việt Nam nào, dù Bắc hay Nam đều có một vật thiêng liêng đặt nơi quan trọng nhất. Đó là chiếc bàn thờ. Do quan niệm tín ngưỡng thời tổ tiên đã có từ lâu đời, đến nay đã trở thành khuôn mẫu của gia đình Việt Nam. Nên dù theo tôn giáo nào, trong gia đình người Việt đều có thể lập bàn thờ để phụng thờ tổ tiên đã quá cố. Đến tết thì bàn thờ tổ tiên được xem là trọng tâm mọi diễn biến lễ tết. Trước ngày Giao thừa, “đồ đồng được đem đánh bóng. Đồ gỗ thì lau chùi cẩn thận. Tro trong bát nhang được thay sớm, chân nhang được tỉa bớt, bỏ xuống giêng hay ra sông chứ không được vứt bừa bãi”[12]. Điều đó cho thấy bàn thờ tổ tiên được chuẩn bị rất kỷ lưỡng.
Đến trưa tất niên thì làm lễ đón ông bà tổ tiên về ngự và từ đó nhang khói được dâng lên liên tục để cho thấy sự hiện diện của ông bà về chung vui tết với con cháu. Miền Bắc còn có tục “mua hai cây mía tươi buộc hai bên cột, gọi là “gậy ông vải” để tổ tiên lấy cái mà chống trên đường từ cõi xa xăm về và sẽ trở lại chốn xa xăm ấy khi hết Tết”[13]. Từ mùng một đến mùng ba các cụ phải lễ tổ tiên trước rồi mới đi chúc tết các nơi. Đến mùng bốn làm lễ đốt vàng (hay hóa vàng) thì mang hết tiền vàng mã ra đốt để tiễn đưa tổ tiên về trời. Bên cạnh đó, dân gian ta vẫn không quên cúng các vị gia thần như: thần tài, thổ địa; phù hộ cho nam chủ có Quan thánh đế, Ngũ công vương Phật, cho nữ chủ có Cửu thiên quyền nữ, Quán thế âm bồ tát; hay các vị tổ nghề,…Ngoài ra các thiện nam, tín nữ còn đi hành hương ở các đình, chùa, miếu, mạo để cầu sinh tài lộc, điều may và tiêu trừ việc xấu.
Như vậy, nếu như lễ hội được diễn ra theo không gian, trọng tính trần tục. Thì lễ tết cổ truyền diễn ra theo thời gian, trọng tính thiêng liêng. Và tất cả mọi phong tục kiêng trong lễ tết điều mong muốn một năm mới được yên vui, may mắn đến với gia đình. Đặc biệt là mọi người cảm thấy được hạnh phúc vui tết trong sự che trở của thần linh, tổ tiên ông bà trong những ngày đầu năm.

III.            KẾT LUẬN

Như vậy, qua phần trình bày trên chúng ta thấy được rằng: tết cổ truyền của dân tộc là một hoạt động văn hóa đậm đà bản sắc văn tộc. Tết diễn ra không chỉ đơn giản là đánh dấu một chu kỳ thời tiết trở lại, mà đó còn là một tổ hợp những mối quan hệ đời thường của người Việt Nam với xã hội.
Đặc biệt ta thấy thời gian mọi người vui tết cổ truyền cũng là lúc lòng mọi người vui tươi nhất. Ai ai cũng dẹp bỏ mọi buồn phiền để đón một năm mới và mong muốn những gì mình làm đầu năm sẽ được tái diễn lại trong cả năm đó. Tết cũng là lúc con người ở mọi nơi có thể hướng về với quê hương, tổ tiên ông bà và nhìn thấy những nét đẹp văn hóa bao đời được diễn ra một cách sôi nổi: tục nấu bánh trưng, bánh tét cúng tết; mừng tuổi nhau; tục lì xì,…
Từ những ý nghĩa thiêng liêng được phân tích ở trên. Chúng ta thấy rằng cần phải nhận thức rõ đâu là cái đẹp của văn hóa mà tiếp tục lưu giữ và phát huy. Những yếu tố nào mang tính hữu tục, mê tính dị đoan thì cần loại bỏ. Có như thế thì thế hệ trẻ sau này mới thấy được một cái Tết Nguyên Đán đúng nghĩa như ông bà ta đã cố gìn giữ mấy ngàn năm nay.

  
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.              Toan Ánh, 2001, Phong tục thờ cúng tổ tiên trong gia đình Việt Nam, NXB Văn hóa dân tộc, HN.
2.              Lê Văn Chưởng, 2005, Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Trẻ, Tp. HCM.
3.              Phạm Trường Khang, 2008, Hỏi đáp nghi lễ phong tục dân gian, NXB Văn hóa thông tin, Tp. HCM.
4.              Băng Sơn, 2010, Văn hóa lễ tết của người Việt, NXB Thanh Niên, HN.
5.              Trần Ngọc Thêm, 2000, Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, Tp. HCM.



[1]Lê Văn Chưởng, 2005, Cơ sở văn  hóa Việt Nam, NXB Trẻ, Tp. HCM, 183.
[2] Toan Ánh, 2001, Phong tục thờ cúng tổ tiên trong gia đình Việt Nam, NXB Văn hóa dân tộc, HN, tr 101.
[3] Trần Ngọc Thêm, 2000, Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, Tp. HCM, tr 150.
[4] Toan Ánh, sđd, tr 102.
[5] Lê Văn Chưởng, sđd, tr 182.
[6] Trần Ngọc Thêm, sđd, tr 151.
[7] Băng Sơn, 2010, Văn hóa lễ tết của người Việt, NXB Thanh niên, HN, tr 207.
[8] Toan Ánh, sđd, tr 130.
[9] Toan Ánh, sđd, tr 131.
[10] Toan Ánh, sđd, tr 103.
[11] Toan Ánh, sđd, tr 103
[12] Băng Sơn, sđd, tr 45.
[13] Băng Sơn, sđd, tr 45