Nguyễn San Hà[1]
Tóm
tắt:
Cuộc
Minh Trị duy tân diễn ra cách đây đã 145 năm (1868 – 2013), nhưng những thành tựu
mà sự nghiệp duy tân ấy để lại cho Tổ quốc và dân tộc Nhật Bản thì luôn tồn tại mãi mãi. Không
chỉ diễn ra và gây ảnh hưởng vào thời kỳ
cận đại, nội dung cải cách giáo dục dưới thời Minh Trị (1872 – 1912) vốn được
chính phủ thời bấy giời đặc biệt quan tâm và quyết lòng theo đuổi đã có một sức
lan tỏa sâu rộng vào các nước khu vực. Nhận thấy toàn bộ cuộc cải cách
giáo dục đó, mang đậm tính thời đại của nó và giúp nước Nhật thoát khỏi nguy cơ
trở thành nô lệ của các thế lực phương Tây lúc bấy giờ. Tác giả mong muốn qua
bài viết này, sẽ làm rõ xu thế tiếp cận
thời đại được thể hiện trong cuộc
cải cách giáo dục thời Minh Trị và từ đó rút ra kinh nghiệm cho sự nghiệp cải
cách giáo dục của Việt Nam trong hiện tại.
The
tendency toward the advance of Japan’s Educational Reform during Meiji period –
Experience for Vietnam
Summary
The Meiji Restoration was happening
145 years ago
(1868-2013), however, the achievement from this innovation task was still inherited by the
Country and Japanese nation forever. Not only happened and exert it’s influence
in contemporary age, Educational Reform contents during Meiji period
(1872-1912), which was also being pay great attention and determined by
provisional government, had created wide and deep pervasion to the neighbor
countries.
Because of realizing the entire Educational Reform
together with its great breakthroughs, which had help Japan back from the brink of becoming the
colony of Western
powers at that time; the author hope this article will bring
out the tendency which toward the advance of
Japan’s Educational Reform during Meiji period and learn the experience for
Vietnam Educational Reform in present.
I.ĐẶT
VẤN ĐỀ
Sau
khi nước Nhật hoàn thành công cuộc “Tôn vương đảo Mạc”, chấm dứt hoàn toàn sự tồn
tại của 700 năm của chế độ Bakufu và 265 năm cầm quyền của dòng họ Tokugawa, đất
nước này đã bước vào thời kỳ Minh Trị
Duy tân 1868 – 1912. Trong những nội dung cải cách to lớn của chính phủ Minh Trị thực hiện thì cải
cách giáo dục có một ý nghĩa đặc biệt. Vì nhờ nó mà mọi yêu cầu cấp thiết cho
con đường hiện đại hóa đất nước từng bước hoàn thành. Công cuộc giáo dục thời bấy
giờ, đã được chính phủ mới từng bước thực hiện một cách thận trọng, có định hướng.
Tác giả nhận thấy, chính việc xây dựng thành công một nền giáo dục mang tính thời
đại đã thực sự góp phần to lớn đưa nước Nhật đi đến “Phú quốc cường binh”. Vậy
tính thời đại trong cải cách giáo dục của Nhật Bản thời kỳ Minh Trị là gì ? đặc
điểm đó có thể giúp gì cho công cuộc cải cách giáo dục của Việt Nam hiện nay ?
tất cả chính là nội dung mà bài viết muốn gửi đến hội thảo.
II.NỘI DUNG
1.Bối cảnh nước Nhật thời cận đại
và sự ra đời của chính quyền Minh Trị
Vào
thế kỷ XVIII, sau khi đã xây dựng được những chính phủ tư sản thông qua các cuộc
cách mạng to lớn làm chấn động hệ thống phong kiến ở châu Âu. Chủ nghĩa tư bản (CNTB)
lại tiến thêm một bước bằng việc lần lượt thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp
thời cận đại, mang đến nhiều thành tựu to lớn cho các quốc gia phương Tây. Cũng
từ đó, các nước phương Tây tiêu biểu như
Hàn Lan, Anh, Pháp, Mỹ …tìm mọi cách không ngừng mở rộng tầm ảnh hưởng của mình
lên các khu vực khác. Như V.I. Lênin từng chỉ rõ “Điều quan trọng là chủ nghĩa tư bản không thể tồn tại và phát triển, nếu
không thường xuyên mở rộng phạm vi thống trị của nó, không khai phá những xứ sở
mới mà không lôi cuốn các xứ sở cũ không phải tư bản chủ nghĩa vào cơn lốc kinh
tế thế giới”. Cho nên, khi phương thức
sản xuất CNTB đã có chỗ đứng ở Tây Âu, thì việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ,
nguồn nguyên liệu và nhân công rẻ mạt ở các quốc gia Á – Phi và Mỹ latinh là cần
thiết hơn bao giờ hết. Trong đó, Nhật Bản cũng nằm trong vị trí chiến lược về địa
chính trị - địa kinh tế mà nhiều thế lực phương Tây khao khát.
Trong
khi đó, chế độ Mạc phủ Tokugawa nắm thực quyền tại Nhật đang trượt dài theo sự
suy sụp chung của chế độ phong kiến đương thời ở châu Á, thể hiện ở một số điểm
tiêu biểu sau:
thứ nhất,
nền kinh tế phong kiến – võ sĩ sụp đổ ở
nông thôn và sự nổi dậy của nông dân ở khắp nơi. Do Ruộng đất ở trong tay của các Daimyo phong kiến. Nông
dân Nhật phụ thuộc ngày càng nhiều vào những người này và hằng năm phải nộp tô
thuế 50% - 60% sản phẩm của họ. Bên cạnh đó, Tình trạng hữu bại, tham nhũng, hối
lội ngày càng tăng trong bộ máy của Bakufu cũng như ở các Han đã làm cho mâu
thuẫn giữa lực lượng thống trị và bị trị ngày càng không thể xoa dịu. Hệ quả là
đã có 1192 cuộc đấu tranh của nông dân xảy ra trong khoảng 67 năm ngay trước
khi Minh Trị Duy tân.
Thứ hai, yếu tố TBCN bắt
đầu xuất hiện và mâu thuẫn với lực lượng thống trị trong xã hội Nhật Bản. Vào
thời kỳ cận đại, lực lượng samurai ngày càng suy đồi và mất đi vị thế trong xã
hội. Do bổng lộc của giới võ sĩ ngày càng bị thấp đi trong khi mức sống chung của
xã hội ngày càng phát triển. Đến đầu Tk XIX, có khoảng 2 triệu võ sĩ bậc thấp,
phải sống trong cảnh nghèo túng, nợ nần. Bên cạnh đó thì việc
“thương mại hóa” tước hiệu võ sĩ cũng diễn ra phổ biến. Các điều trên đã gây một
tâm lý bất mãn trong đẳng cấp võ sĩ vốn là chỗ dựa của chính quyền Tokugawa
Bakufu. Trong khi đó, sự phát triển mạnh mẽ của đẳng cấp công thương nghiệp
cùng với nền kinh tế hàng hóa và nền sản xuất mang tính chuyên môn cao đã làm
cho nảy sinh mầm móng TBCN trong lòng xã hội phong kiến Nhật. Nhưng chính quyền
Bakufu đã dùng nhiều biện pháp để kiểm soát hoạt động của công thương nghiệp. Đối
với thương nhân thì chính quyền Bakufu
tiến hành kiểm soát gắt gao hoạt động cũng như thu nhập của họ, thậm trí còn sử
dụng quyền lực của mình để tước đoạt tài sản của họ, nhằm hạn chế thế lực của
tư bản thương nhân và tư bản cho vay nặng lãi. Tất cả điều trên, làm tầng lớp
thương nhân ngày càng chán ghét chế độ Bakufu.
Thứ ba, trong đối ngoại
chính quyền Tokugawa đã buộc phải mở cửa đón nhận sự xâm nhập của các thế lực
phương Tây, bằng các hiệp ước bất bình đẳng. Sau một thời
gian dài thực hiện chính sách “tỏa quốc”, nhiều lần các phái đoàn phương Tây đến
Nhật đòi chính quyền Bakufu “mở cửa”, nhưng điều bị chính quyền Mạc phủ cự tuyệt.
Đến 7/1853, Mỹ phái một hạm đội gồm 4 tàu hải quân do Đô đốc Mathew Perry chỉ
huy tiến lên vịnh Edo để đòi Nhật Bản mở cửa thông thương. Trước áp lực tàu chiến
hiện đại của Mỹ, gần một năm sau 31/3/1854, chính quyền Bakufu buộc phải ký hiệp
ước Kanagawa với Mỹ. Trên cơ sở đó, chính quyền Tokugawa buộc phải ký các hiệp
ước về cơ bản giống như vậy với Nga (8/1858), Anh (8/1858), Pháp (10/1858)… Việc
các hiệp ước bất bình đẳng được ký kết với các cường quốc phương Tây, đánh đấu
thời kỳ “mở cửa” của Nhật Bản sau hơn 2 thế kỷ đóng cửa. Tuy đã nhận thức được
mối đe dọa mất nước, nhưng Bakufu vẫn không đưa ra được những giải pháp có hiệu
quả để phong ngừa điều đó. Cuối cùng chính quyền Bakufu phải đưa vấn đề đó lên
hỏi ý kiến của Thiên hoàng và các Daimyo.
Trước
những khó khăn trên, chính quyền Tokugawa trở nên bất lực trong việc điều hòa
các mâu thuẫn trong và ngoài nước Nhật. Cùng lúc đó, trên toàn đất nước dấy lên
phong trào đòi trả lại quyền lực cho Thiên hoàng. Việc lật đổ chính quyền
Tokugawa Bakufu được thực hiện dưới khẩu hiệu “Tôn vương đảo Mạc” thu hút được
đông đảo các tầng lớp nhân dân, đứng đầu là các chí sĩ yêu nước. Sau khi cuộc
chiến tranh Mậu Thìn (1868-1869) kết thúc, đánh bại hoàn toàn chính quyền Mạc
phủ, tháng 7/1868, chính phủ mới đổi tên Edo thành Tokyo, xác định là thủ đô của
Nhật Bản. Ngày 8/9/1868, Thiên hoàng đổi niên hiệu là Mâygi (Meijji – Minh Trị,
có nghĩa là cai trị sáng suốt). Sự kiện trên đã đánh dấu một nước Nhật mới ra đời,
và bắt đầu công cuộc canh tân đất nước theo hướng tư bản hóa tiến đến “phú quốc
cường binh”. Tất cả đã được thể hiện trong tuyên bố của Thiên hoàng vào ngày 06/04/1868,
bản thảo do Iwakura Tomoni, Fukuoka Kotei và Kido Koin soạn thảo có 5 điểm quan
trọng làm căn cứ cho nền chính trị của chính quyền mới:
1. Mở Hội nghị rộng rãi, mọi công
việc đều theo công luận mà quyết định.
2.Trên dưới đồng lòng, ra
sức sửa sang việc nước.
3.Từ công khanh đến dân thường đều vui vẻ, hết lòng vì công việc.
4.Bỏ hết thói hư, tật xấu để gắng
Duy tân cải cách tự cường hợp với đạo trời đất.
5.Học hỏi tri thức trên thế giới làm cho nước nhà lớn mạnh.[2]
Với
5 điểm lớn trong tuyên bố trên của Thiên hoàng, thì giáo dục cũng được nhấn mạnh
và cho thấy nó là một trong những nội dung mà chính phủ mới quyết lòng theo đuổi.
Thực chất, điều đó đã nói lên tinh thần muốn học tập kinh nghiệm và những thành
tựu khoa học của thế giới văn minh phương Tây (vốn là những kẻ thù buộc nước Nhật
phải mở cửa chia quyền lợi cho chúng). Vì người Nhật hiểu rằng: Nhật Bản chỉ mới
ở vào giai đoạn “bán văn minh”, và họ còn cần phải học hỏi nhiều ở sự tiến bộ của
phương Tây nếu như nhân dân Nhật Bản không muốn mất nước như viễn cảnh một số
nước khác ở châu Á.
2.Tính thời đại trong cải
cách giáo dục dưới thời Minh Trị (1868 – 1912)
2.1
Sơ lược quá trình tiến hành cải
cách giáo dục thời Minh Trị
Điểm cần lưu ý là cuộc cải cách giáo dục dưới
thời Minh Trị được thực hiện đồng thời với một số cải cách về chính trị, xã hội, văn hóa, quân sự…Và
thực sự bắt đầu vào 7/1871,
khi chính phủ ban hành lệnh “phế Han lập
Ken” (bỏ phiên lập huyện), thì không lâu sau đó Bộ giáo dục (Monbusho) được
thành lập, tháng 11 cùng năm thành lập Văn phòng điều tra học đường và có sự
giúp đỡ của một số vị giáo sư nước ngoài như:Verkbeck (Hà Lan) và David Muray
(Mỹ). Một tháng sau cử một phái đoàn sứ giả do Iwakura dẫn đầu đi sang 12 nước
châu Âu học tập. Từ 1868 – 1871 nhiều trường học theo hướng hiện đại được thiết
lập trong cả nước. Song song đó, hai trung tâm đại học là Kyoto và Tokyo cũng
được thiết lập nhằm mục đích đào tạo nhân tài cung cấp cho sự nghiệp đất nước.
Đến 3/8/1782, Bộ giáo dục ban hành “Học chế” gồm 213 điều để
xác định và thống nhất xu hướng phát triển giáo dục của mình. Nền giáo dục Nhật
Bản dưới thời Minh Trị trải qua các giai
đoạn như sau:
Từ 1872 đến 1885: là giai đoạn
chính phủ bắt đầu du nhập các mô hình giáo dục của phương Tây và từng bước áp dụng
vào nước Nhật. Với
việc thông qua “Học chế” tiến bộ đoạn tuyệt với nền giáo dục Nho học, thể hiện ở
những nội dung chính như: Nhà trường
dành cho tất cả mọi người và kiến thức dựa vào Âu – Mỹ; Đào tạo con người làm
giàu cho Tổ quốc và bảo vệ đất nước; Xây dựng nhiều trường học và mở rộng các
trường cao đẳng và chuyên nghiệp…Nên ngay từ đầu chính quyền Minh Trị đã bỏ rất
nhiều tiền để đầu tư cho giáo dục (ước tính
khoảng 14% ngân sách quốc gia) để
mời các học giả và chuyên gia Âu
– Mỹ[3]. Nhiệm
vụ trọng tâm trong giai đoạn này là chính phủ Minh Trị tiến xây dựng
hệ thống trường học theo mô hình hiện đại. Cụ thể là chỉ trong vòng 7 năm (1872
-1878), Nhật Bản đã xây dựng được 26.584
trường các loại, đạt tỷ lệ 50% so với kế
hoạch của Học chế đề ra[4].
Bên cạnh đó, chính phủ cũng đẩy mạnh việc mời các giáo sư ở nước ngoài đến Nhật để giảng dạy và làm cố vấn khoa học chuyên ngành cho công cuộc Minh Trị.
Từ 1885 đến 1912: được xem là giai
đoạn hoàn thiện hệ thống giáo dục hiện đại của nước Nhật thời cận đại.
Trong thời gian này, nền giáo dục đất nước do Bộ trưởng giáo dục Mori Arinori chỉ đạo. Quan niệm về
nền giáo dục mới của ông gồm những nội
dung chính sau: một là giáo dục để tiến
đến việc làm giàu và củng cố nước nhà, hai giáo dục sẽ làm biến đổi ý thức cũ
và ba giáo dục góp phần vào bảo tồn truyền thống quốc gia.[5]
Trên cơ sở đó, Mori đã ban hành một loạt nhiều bộ luật giáo dục như: Luật Đại
học hoàng gia (3/1886); Luật trường Tiểu học, luật trường Trung học, luật
trường Sư phạm (4/1886) được gọi chung
là luật trường học (Gakkoirei). Điều đó đã đặt nền tản cho việc khẳng định nền giáo dục mới được quản lý trên cơ sở một hệ thống pháp luật thống nhất và dân chủ tồn tại đến
trước chiến tranh thế giới thứ hai. Giai
đoạn này, giáo dục tiểu học theo luật mới ban
hành 1886 đã được chia lại thành
2 bậc gồm: 4 năm bậc thấp và 4 năm bậc
cao (trong đó, 4 năm tiểu học bậc thấp
là giáo dục nghĩa vụ). Hệ thống trường trung học cũng được đi vào hoàn thiện
với hai loại là trung học sơ cấp và
trung học cao cấp. Sau khi đã tốt nghiệp
trung học cao cấp (được thiết lập ở tỉnh
hay thành phố) thì học sinh có thể vào
học ở Đại học hoàng gia. Đến năm 1900, lệnh bãi bỏ học phí ở các trường tiểu học công lập được thực hiện đã kích thích tỷ lệ trẻ em đến
trường đạt gần 100% vào cuối thời Minh
Trị. Song song đó, sau khi Bộ trường Mori bị ám
sát (11/2/1889), thì nền giáo dục Nhật Bản tiếp tục hoàn thiện với việc
đẩy mạnh nội dung giáo dục truyền thống trong học đường, góp phần củng cố và phát huy bản sắc văn hóa
của dân tộc.
2.2
Cải cách giáo dục thời kỳ Minh Trị mang đậm tính thời đại
Như
trên đã trình bày, lịch sử Nhật Bản đầu thời kỳ cận đại đã phải đối mặt
với một loạt vấn đề cần phải giải quyết vì có
ảnh hưởng đến sự tồn vong của quốc gia dân tộc. Nên ngay khi chính quyền
do Minh Trị thiên hoàng đứng đầu được
thành lập đã xem việc phải làm
sao bắt văn minh các nước phương Tây là
một mục đích quan trọng phải tiến đến. Nền giáo
dục được thiết lập dưới thời Minh
Trị duy tân dĩ nhiên cũng phải nhằm phục
vụ mục tiêu chính trị trên của
chính phủ mới. Do đó mà nền giáo
dục mới “phải hoàn thành nhiệm vụ cụ thể, học tập văn minh phương Tây , kỹ thuật khoa học sản xuất và quản lý kinh tế để hội nhập kinh tế thế giới”[6].
Và để thực hiện được nội dung đó, chính
phủ Minh Trị đã xây dựng một nền giáo
dục mang đậm tính thời đại thể hiện ở
một số nội dung cụ thể sau:
Thứ
nhất, xây dựng một nền giáo dục mang
tính bình đẳng và toàn dân tiến bộ.
Xã hội nước Nhật cuối thời kỳ Edo đã dựa trên nền tảng truyền thống võ sĩ đạo
trọng cả võ và học thực, họ nhận định rằng: không thể để cho sự ngu dốt làm bại
hoại uy danh của samurai. Do đó, nền giáo dục cuối thời Edo cũng có nhiều điểm
tiến bộ như: ước tính có tới 11.302 trường
học các loại được thiết lập ở Nhật Bản vì vậy đã có tới 50% nam giới và 15% nữ giới biết đọc, biết viết[7], một
điều mà các nước theo Nho giáo trong khu vực ít
có được. Ở tại nước này cũng đã sớm
tạo lập một số nhóm học thuật theo tư tưởng tiến bộ mà nổi lên là phái Lan học (học tập khoa học tiến
bộ thông qua Hà Lan). Theo tác giả, chính đặc điểm này là một bước chuẩn bị đắc lực, để
chính phủ Minh Trị dễ dàng du nhập các
kiến thức khoa học phương Tây vào nước
Nhật. Cũng từ đó mà tư tưởng “Thoát Á” của Fukuzawa Yukichi phát triển với
khẳng định: “Sự thức tỉnh tinh thần sẽ
làm cho nhân dân cả nước ta hứng khởi tiến
tới văn minh. Sự thức tỉnh này khiến chúng ta không thõa mãn với văn minh của
mình mà nhiệt tâm hướng tới văn minh phương Tây. Do vậy, giờ đây, chúng ta đặt
mục tiêu là nâng tầm văn minh Nhật Bản lên ngang bằng với nền văn minh phương Tây, và có thể vượt lên trên nền
văn minh phương Tây. Vì nền văn minh
phương Tây vẫn đang tiến triển hàng ngày, hàng tháng nên chúng ta, những người
Nhật Bản, cần phải không ngừng nổ lực tiếp theo nhịp tiến của văn minh phương
Tây”[8].
Và dĩ nhiên để thực hiện được nội dung trên thì chí có một nền giáo dục
mang tính toàn dân và bình đẳng mới đáp ứng
được khát vọng của các nhà thực học Nhật Bản thời cận đại. Và điều đó đã được chính phủ của Ito Hirobumi (1841 -1909) củng cố và khẳng định thêm: Để cho nước Nhật bước lên con đường giàu có cường thịnh, trước hết cần
phải gợi mở trong đông đảo quốc dân những kiến thức và những kỹ năng tốt đẹp,
để từ đó bước vào lĩnh vực văn minh khai hóa[9].
Tất cả điều đó, được thể hiện ở việc từng bước xóa bỏ hoàn toàn hệ thống
trường học phân biệt đẳng cấp cũ
dưới thời Edo, và không ngừng thiết lập một hệ thống trường học cho tất cả mọi
tầng lớp nhân dân tham gia. Bên cạnh đó,
thì tính bình đẳng còn được biểu hiện ở tỷ lệ nữ sinh Nhật Bản đến trường ngày càng tăng lên: Năm 1875 (đời Minh Trị thứ 8), nữ
sinh các trường phổ thông cơ sở đã chiếm 18,6% trong tổng số
nữ của cả nước. Đến năm 1900 (Minh Trị 30), số nữ đã lên đến 90%[10].
Ở điểm này, chính nhiều nước phương Tây còn phải khen ngợi nền giáo dục xứ sở mặt
trời mọc này.
Thứ
hai, nền giáo dục Nhật Bản đã đẩy mạnh việc xây dựng nội dung học tập khoa học, kỹ thuật hiện đại của phương Tây bằng mọi hình thức để nhanh
chóng hội nhập vào văn minh thế giới.
Do những thất bại của chính quyền Tokugawa trong việc ngăn cản các thế lực
phương Tây đòi Nhật Bản “mở cửa”. Người Nhật đã nhận thấy mình đã thua
phương Tây vì quốc gia chỉ đang ở vào giai đoạn “bán văn minh”. Nên tác phẩm “Khuyến học”, Fukuzawa
Yukichi đã chỉ ra: “đối thủ mà các bạn phải
tranh đấu về trí tuệ là những người phương Tây. Nếu các bạn thắng trong cuộc đọ
sức tri thức này thì vị thế của nước Nhật Bản sẽ dâng cao trên trường quốc tế.
Còn ngược lại, nếu các bạn thua thì
chúng ta, những người Nhật Bản, sẽ mãi mãi thấp kém dưới con mắt người phương
Tây”[11].
Từ quan điểm đó, chính phủ Minh Trị các giai đoạn khác nhau điều dồn sức cho việc
học tập kiến thức khoa học kỹ thuật
phương Tây. Thể hiện cụ thể
ở một số hành động như: đẩy mạnh việc thuê mướn các giáo sư, chuyên gia nước ngoài đến Nhật để giải dạy
và làm cố vấn: theo thống kê kinh phí 1873, thì Bộ giáo dục đã dùng đến 200.072
ngàn Yên (chiếm 14,50%) để thuê các giáo
sự nước ngoài; đẩy mạnh đưa du học sinh
sang các nước phương Tây để học tập: ước
tính khoảng có 373 sinh viên được đi du
học (năm 1873), trong đó có 250 sinh viên được Chính phủ cấp học
bổng, tiêu tốn của chính phủ
148.248 ngàn Yên (chiếm 10,70%) chí phí
của Bộ giáo dục[12].
Bên cạnh đó, chính phủ Minh Trị cũng coi trọng việc dịch thuật và hiệu đính các
tài liệu khoa học kỹ thuật từ nước ngoài
để nhân dân có thể tiếp
cận thành tựu văn minh thế giới. Song
song đó là nền giáo dục tiên tiến trong
nước cũng được hình thành, nguồn
nhân lực được đưa đi du
học ở các nước chính là nhân tố quan trọng góp phần xây dựng nền giáo dục mới trong nước sau khi hoàn
tất chương trình du học về. Tất cả đã chứng
minh cho quyết tâm muốn học tập và đuổi
kịp tri thức phương Tây của
chính phủ mới, vì nó có một vai
trò lớn như Yukichi đã nhận định:
“một mặt phải dè chừng sức mạnh khủng khiếp
của nền kỹ nghệ Tây phương, mặt khác có nhiều điểm đáng để chúng ta học hỏi ở
văn minh phương Tây. Tìm hiểu, nghiên cứu, phân tích, so sánh kịp thời tình hình trong và ngoài nước, chính là điểm
phải tiếp tục nổ lực, nếu không chúng ta sẽ trở thành nô lệ”[13]
Thứ
ba, tính thời đại của nền giáo dục Minh Trị còn được thể hiện ở chỗ nó biết chọn lọc cái hay của thời đại để
du nhập và không làm tổn hại đển cái
truyền thống vốn có của dân tộc Nhật Bản.
Như đã trình bày ở các phần trên, trước sự
cần thiết phải du nhập mô hình trường học và học tập các kiến thức của nền
văn minh phương Tây (trong đó có cả những
nước đã buộc Nhật Bản “mở cửa”). Nhưng đất
nước này, đã không tiếp thu các tri thức
khoa học của phương Tây một cách mù
quáng, làm ảnh hưởng đến những giá trị tốt
đẹp của dân tộc xứ sở Phù Tan. Họ đã
có sự
chọn lọc một cách kĩ lưỡng và yếu tốt tốt dân tộc vẫn là gốc để lựa chọn.
Khi đánh giá việc du nhập các mô hình giáo dục phương Tây vào nước này, đã có
ý kiến nhận định rằng: “Hệ thống giáo dục dưới thời Minh Trị
nó không hoàn toàn theo khuôn mẫu của bất kỳ nước nào, mà nó chọn lọc từ hệ
thống giáo dục của nhiều nước để đưa vào phù hợp với hoàn cảnh Nhật Bản”[14]. Vì rõ ràng, vào giai đoạn hình
thành nền giáo dục mới, thì nước Nhật dựa hoàn toàn vào mô hình giáo dục Pháp
để hình thành các khu vực đại học, như
sao đó đã có sự điều chỉnh và đi đến
thiết lập mô hình của giáo dục theo Mỹ. Ngay đến việc mời các giáo sư tham gia
giảng dạy, họ vẫn có sự lựa chọn điểm mạnh của từng quốc
gia để học tập được hết sự tinh
túy. Bên cạnh đó, từ rất sớm người Nhật cũng không chấp nhận việc cứ phải đổ
nhiều kinh phí vào việc mời giáo sư nước ngoài và cho sinh viên đi du
học. Thể hiện rõ nhất chính là quan điểm của Fukuzawa Yukichi trong
“khuyến học”: “Chúng ta không thể thuê vĩnh viễn
người phương Tây làm thay chúng ta. Chúng ta ra sức học tập họ, nhưng không
nên quá sùng bái, tôn thờ họ”[15]
hay “Mọi thứ của cải, mọi đồng ngoại tệ
nước Nhật Bản tích cóp được, lại cứ phải đem dâng cho nước ngoài hết, như thế có khác nào “ky cóp
cho cọp nó xơi””[16]. Từ tinh thần đó, số lượng sinh viên ra
nước ngoài du học được giảm dần, do các thế hệ du học sinh thời kỳ đầu
quay về phục vụ lại cho Tổ quốc, và đồng
thời là số lượng giáo sư nước ngoài cũng được cắt giảm. Đến năm 1879, Viện
học sĩ Tokyo (Viện học sĩ Nhật Bản) được thành lập, đánh dấu bước phát triển mới
về quản lý khoa học, giáo dục Nhật Bản theo phương pháp hiện đại. Bên cạnh đó,
tất cả các truyền thống của đất nước này điều được bảo lưu và lồng ghép vào môn
học Tu thân rất được coi trọng trong nhà
trường. Nên đến tận ngày hôm nay, đặc điểm “ham hiểu biết, thích học hỏi, và biết học những gì có ích cho mình
để trả lời những câu hỏi lịch sử đặt ra
đối với dân tộc Nhật”[17]
dường như vẫn còn tồn tại trong tính
cách của người Nhật hiện đại.
Tất
cả các đặc điểm trình bày trên đã thể hiện
rõ công cuộc cải cách giáo dục của Nhật Bản thời kỳ Minh Trị duy
tân đã mang đậm tính thời đại, từ đó giúp nước Nhật thoát khỏi sự phụ thuộc vào hệ tư tưởng
Nho giáo lỗi thời, thoát khỏi nguy cơ
trở thành một quốc gia bị nô lệ vào các thế lực thực dân phương Tây. Đặc biệt, chính việc trả lời được câu hỏi thời đại, nước Nhật trở thành nước duy nhất trong khu vực châu Á tiến vào thế giới văn minh của nhân loại và quỹ đạo của CNTB đầu thế kỷ XX.
3.Vài kinh nghiệm cho cải cách giáo
dục ở Việt Nam
Dù
cuộc công cuộc Minh Trị duy tân đã diễn ra cách ngày nay 145 năm và đã từng làm
cho nhiều chí sĩ yêu nước ở Việt Nam và
một số nước trong khu vực ngưỡng mộ. Nhưng
khi đứng ở thế kỷ XXI của chúng ta, tác
giả thấy rằng công cuộc cải cách giáo dục
dưới thời Minh Trị vẫn còn nhiều giá trị
đáng được phải tiếp tục học tập.
Thứ
nhất, nước Nhật dưới thời Minh Trị thực
hiện thành công công cuộc cải cách giáo dục của
mình chính là nhờ vào việc họ xác định và đưa ra được câu trả lời của thời đại.
Như Fukuzawa Yukichi đã nhận định: “Trong
khung cảnh mới mẻ và đầy khí thế của văn minh, trong khi chúng ta bàn về giáo
dục, họ lại chỉ nói về đạo Khổng. Nói về giáo dục ở trường lớp, họ chỉ giảng về
các khái niệm "Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí" [tư tưởng của Mạnh Tử]. Trong
khi dạy cho học trò căm ghét sự phô trương, chính họ lại thể hiện sự thiếu hiểu
biết về các chân lý và nguyên tắc”[18] và từ đó chỉ ra
chỗ sai lầm trong biện pháp ngăn chặn kẻ thù của một số nước trong khu vực đó
là: “Họ quyết liệt tìm cách tránh nền văn
minh này bằng cách đóng kín tất cả các cửa thông khí trong phòng. Không có
không khí, họ sẽ ngạt thở đến chết”[19]. Nên người Nhật đã xác định cải cách
giáo dục là một nội dung cần thiết phải được
quan tâm và thực hiện triệt để những nội dung đã đề ra, vì chỉ có
nó mới giúp được nền chính trị mới đạt được các thành tựu to lớn trên nhiều mặt. Quan
trọng hơn là ở đây, chính phủ Minh Trị đã nhận ra vai trò của yếu tố
con người được trang bị tri thức văn minh đối với công cuộc tiến đến “phú quốc cường binh” của nước Nhật Bản. Và khi hiểu được điều đó,
chúng ta mới thấy rằng: chính nguồn
lực con người có tri thức thông qua nền giáo dục hiện đại (thiên về ứng dụng, thực dụng)
đã giúp một đất nước vốn nghèo nàn về
tài nguyên, thiên nhiên có thể vươn lên thành một cường quốc trong một thời gian mà đối với các nước
Tây Âu phải mất đến 200 năm.
Thứ hai, nền giáo dục mà người Nhật
Bản theo đuổi suốt thời cận đại là nền giáo dục tiên tiến, mang đậm tính thời đại, thể hiện rõ ưu thế của khoa học kỹ thuật trên thế giới. Khi hiểu được điều đó, nhân dân
dưới sự chỉ đạo của chính phủ đã không ngần ngại học tập tiếp thu các thành tựu đó bằng mọi cách và quyết liệt. Với câu nói: “cho
dù phải mặc áo vá, phải
ăn gạo hẩm cơm độn, phải chịu nóng, chịu rét cũng vẫn học được”[20]
của Yukichi đã thể hiện ý chí quyết tâm của nhân dân Nhật thời bấy giời đối với việc học tập tiến bộ của nhân loại. Như vậy,
trong mọi công cuộc cải cách giáo dục, chúng ta
cũng cần phải đi đến chọn lựa những thành tựu tiêu biểu của nhân loại để học tập. Và khi đã xác định được
nó thật sự tiên tiến và cần thiết
cho Tổ quốc, thì toàn dân và
chính phủ không có gì phải lo ngại trong việc tiếp thu nó, xóa bỏ đi những cái chỉ còn là tàn
tích đối với thời đại.
Thứ
ba, trong cải cách giáo dục chúng ta
cũng cần phải chú ý đến việc duy trì truyền thống và bản sắc văn
hóa dân tộc. Chính
người Nhật đã là chiếc gương cho
các dân tộc khác trong khu vực nhìn vào khi họ học tập tri thức của phương Tây nhưng vẫn giữ được tinh thần đạo đức của phương Đông. Điều đó được
thể hiện cụ thể trong môn
học tu thân (tương đương Đạo đức) được
chú trọng vì theo quan niệm của giáo dục
Nhật Bản thì việc rèn luyện đạo đức không thể tách rời với việc tiếp thu tri
thức được. Điều đó, cũng đã gợi lên một bài học rằng, chúng ta không nên quá ôm đồm kiến thức để rồi quên đi hay xem nhẹ
việc giáo dục đạo đức, hình thành nhân cánh cho học sinh trong thế kỷ khoa học phát triển như vũ bão. Suy cho
đến cùng, bản sắc văn hóa dân tộc vẫn
phải là gốc để chúng ta chọn lựa tri
thức cho phù hợp với yêu cầu của dân tộc.
III.KẾT
LUẬN
Qua tất cả phần trình bày ở trên, tác giả muốn gửi đến hội thảo nhân kỷ niệm 40
năm quan hệ Việt – Nhật, một thông điệp
rằng: cái tinh thần ham học hỏi, thật sự cầu thị của nhân dân Nhật Bản trong
thời kỳ cải cách giáo dục do chính phủ Minh Trị thực hiện vẫn còn nhiều giá trị
thời đại mà các dân tộc trong khu vực
cần phải tăng cường học tập và rút kinh
nghiệm. Nói như vậy, không có nghĩa là
chúng ta luôn luôn đề cao nước ngoài mà phải giống như người Nhật luôn đề cao
dân tộc, đề cao và giải quyết cho bằng
được yêu cầu của thời đại đặt ra cho Tổ quốc. Hồ chủ tịch cũng đã từng nhấn
mạnh vai trò của công cuộc giáo dục và đào tạo con người Việt Nam trong bức thư
đầy tâm quyết của Người gửi cho học sinh nhân ngày khai trường tháng
9/1945: “Non sông Việt Nam có trở
nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt
Nam có bước đến đài vinh quang để
sánh vai với các cường quốc năm châu
được hay không, chính là nhờ một phần
lớn ở công học tập của các em”[21].
Tất cả cho thấy như có sự tương đồng trong cả hai dân tộc Việt – Nhật ở chỗ
điều nhìn nhận “giáo dục là quốc sách
hàng đầu”. Rất mong rằng: Việt Nam và Nhật Bản
sẽ tổ chức nhiều cuộc hội thảo,
tọa đàm khoa học để nhân dân hai nước
hiểu biết nền giáo dục của nhau hơn và
Việt Nam có thể chủ động học tập những tiến bộ từ nền giáo dục Nhật Bản.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Nguyễn Văn Hồng (1994), Lịch sử giáo dục
thời Minh Trị Duy tân, NXB Giáo dục, HN.
2.
Nguyễn Quốc Hùng chủ biên (2012), Lịch sử Nhật Bản, NXB Thế giới, HN.
3.
Đặng Xuân Khánh, Cải cách giáo dục ở Nhật Bản thời kỳ Minh Trị, trích Phong
trào cải cách ở một số nước Đông Á giữa Tk XIX – đầu Tk XX, Vũ Dương Ninh (chủ
biên), NXB ĐHQG, HN.
4.
Fukuzawa Yukichi (2012), Khuyến học – hay những bài học về tinh thần độc lập tự
cường của người Nhật Bản, Phạm Hữu Lợi dịch, NXB Dân Trí
5.
Fukuzawa Yukichi, Thoát Á Luận – 16/3/1885,http://www.nhatban.net/news/index.php?page=article&storyid=289
6.
Hồ Chí Minh (2000), Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, NXB CTQG, HN.
Tham luận Hội thảo khoa học Quốc tế Việt - Nhật 2013 "Quan hệ hợp tác Việt – Nhật và vấn đề giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực” tổ chức vào 19/10/2013 tại ĐH Ngoại ngữ - Tin học TP. HCM (HUFLIT)
[1] GV trường THCS Võ Trường Toản –
Q1 TP.HCM
[2] Nguyễn Văn Hồng (1994), Lịch sử giáo dục thời Minh Trị
Duy tân, NXB Giáo dục, HN, tr16.
[3] Nguyễn Văn Hồng (1994), Lịch sử giáo dục thời Minh Trị
Duy tân, NXB Giáo dục, HN, tr33.
[4] Đặng Xuân Khánh, Cải cách giáo dục
ở Nhật Bản thời kỳ Minh Trị, trích Phong trào cải cách ở một số nước Đông Á giữa
Tk XIX – đầu Tk XX, Vũ Dương Ninh (chủ biên), NXB ĐHQG HN, tr 174 -175.
[5] Đặng Xuân Khánh, sđd, tr 182.
[6] Nguyễn Văn Hồng (1994), Lịch sử giáo dục thời Minh Trị
Duy tân, NXB Giáo dục, HN, tr13.
[7] Nguyễn Quốc Hùng chủ biên (2012),
Lịch sử Nhật Bản, NXB Thế giới, HN, tr233.
[8] Fukuzawa Yukichi (1986), Khái lược
văn minh luận, Iwanami Shoten, Tokyo, tr 10-11.
[9] Đặng Xuân Khánh, Cải cách giáo dục
ở Nhật Bản thời kỳ Minh Trị, trích Phong trào cải cách ở một số nước Đông Á giữa
Tk XIX – đầu Tk XX, Vũ Dương Ninh (chủ biên), NXB ĐHQG HN, tr167.
[10] Nguyễn Văn Hồng (1994), Lịch sử giáo dục thời Minh Trị
Duy tân, NXB Giáo dục, HN, tr35.
[11] Fukuzawa Yukichi (2012), Khuyến học
– hay những bài học về tinh thần độc lập tự cường của người Nhật Bản, Phạm Hữu
Lợi dịch, NXB Dân Trí, tr155.
[12] Đặng Xuân Khánh, sđd, tr 176.
[13] Fukuzawa Yukichi (2012), Khuyến học
– hay những bài học về tinh thần độc lập tự cường của người Nhật Bản, Phạm Hữu
Lợi dịch, NXB Dân Trí, tr182.
[14] Đặng Xuân Khánh, Cải cách giáo dục
ở Nhật Bản thời kỳ Minh Trị, trích Phong trào cải cách ở một số nước Đông Á giữa
Tk XIX – đầu Tk XX, Vũ Dương Ninh (chủ biên), NXB ĐHQG HN, tr177.
[15] Fukuzawa Yukichi (2012), Khuyến học
– hay những bài học về tinh thần độc lập tự cường của người Nhật Bản, Phạm Hữu
Lợi dịch, NXB Dân Trí, tr153.
[16] Fukuzawa Yukichi (2012), Khuyến học
– hay những bài học về tinh thần độc lập tự cường của người Nhật Bản, Phạm Hữu
Lợi dịch, NXB Dân Trí, tr154.
[17] Nguyễn Văn Hồng (1994), Lịch sử giáo dục thời Minh Trị
Duy tân, NXB Giáo dục, HN, tr5.
[18] Fukuzawa Yukichi, Thoát Á Luận –
16/3/1885,http://www.nhatban.net/news/index.php?page=article&storyid=289
[19] Fukuzawa Yukichi, Thoát Á Luận –
16/3/1885,http://www.nhatban.net/news/index.php?page=article&storyid=289
[20] Fukuzawa Yukichi (2012), Khuyến học
– hay những bài học về tinh thần độc lập tự cường của người Nhật Bản, Phạm Hữu
Lợi dịch, NXB Dân Trí, tr 157.
[21] Hồ Chí Minh (2000), Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, NXB CTQG, HN, tr 41.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét