TIẾP
CẬN CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG TẾT MẬU THÂN 1968
QUA
LÁT CẮT VĂN HÓA
NGUYỄN
SAN HÀ[1]
Tóm
tắt
Cuộc “Tổng tiến công Tết
Mậu Thân” diễn ra vào năm 1968 đến nay đã tròn 50 năm. Sự kiện đã thu hút sự
quan tâm và nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước Việt Nam, với
nhiều góc độ tiếp cận khác nhau trong suốt thời gian qua. Dù có những đánh giá
và nhận định gây tranh cải, song các nhà khoa học đều giành cho sự kiện lịch sử
này một vị trí đặc biệt trong tiến trình lịch sử của hai quốc gia Việt Nam và Hoa
Kỳ. Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài viết nhỏ này, tác giả không tham vọng “lật lại”
câu chuyện thắng - thua của cuộc “Tổng tiến công Tết Mậu Thân”, mà chỉ tiếp
cận cuộc nó qua một lát cắt văn hóa trong tổng thể những vấn đề nổi lên quanh sự
kiện lịch sử này. Để từ đó, người đọc có thêm nhiều suy nghĩ về một sự kiện lịch
sử vốn rất quen thuộc với cả nhân dân hai đất nước là Việt Nam và Hoa Kỳ.
***
Sự kiện “Tổng tiến công
Tết Mậu Thân” năm 1968 đã diễn ra trong một bối cảnh đặc biệt đối với chính trường
Hoa Kỳ. Tiếp cận sự kiện lịch sử này qua lát cắt văn hóa chính là việc tác giả
đi vào tìm hiểu và trả lời những nghi vấn mà đã có nhiều người đặt ra xoay
quanh sự kiện vốn được đánh giá là “tiếng sét phá tan màn đêm tại thủ đô
Washington” của cường quốc Hoa Kỳ.
1. Chiến lược “chiến
tranh cục bộ” đã mang lại gì cho chính
phủ Hoa Kỳ ?
Để hiểu rõ vấn đề này,
chúng ta hãy thử quay lại cuộc chiến tranh tại Việt Nam vào thời điểm đầu năm
1965 khi mà chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của chính phủ Hoa Kỳ bày ra đang
trong giai đoạn nguy kịch ! Để tiếp tục thực hiện cam kết cứu nguy cho chính
quyền Sài Gòn đang trên đà khủng hoảng, chính phủ Hoa Kỳ đã tiến thêm một bước
trên nấc thang chiến tranh, bằng việc triển khai chiến lược “Chiến tranh cục bộ”.
Gắn liền với chiến lược chiến tranh mới này là tên tuổi của những người nổi ở đất
nước cờ hoa trong những thập niên 50 và 60 của thế kỷ XX như: Tổng thống
Johnson, Bộ trưởng quốc phòng Mc Namara, Tổng chỉ huy quân Mỹ ở miền Nam Việt
Nam tướng Westmoreland… Họ đã cùng nhau nghiên cứu một cách bài bản về chiến
trường Việt Nam cũng như đặc biệt quan tâm đến những phân tích thái độ phản ứng
của các nước lớn trong khối xã hội chủ nghĩa là Liên Xô và Trung Quốc.
Mục tiêu của chính phủ
Hoa Kỳ trong chiến lược “Chiến tranh cục bộ” là mong muốn đánh bại cuộc cách mạng
miền Nam trong vòng 25 đến 30 tháng (tức từ giữa 1965 đến 1967)[2]. Xét
về lực lượng là một sự phối hợp giữa hai lực lượng chiến lược gồm: quân viễn
chinh Hoa Kỳ và quân đội Việt Nam Cộng
hòa. Trong đó, quân Hoa Kỳ phát huy sức mạnh cơ động của các binh sĩ được đào tạo
bài bản thực hiện chủ yểu vai trò “tìm diệt” bộ đội chủ lực của ta; còn quân đội
Việt Nam Cộng hòa giữ nhiệm vụ chiếm đóng, kìm kẹp nhân dân tại miền Nam Việt
Nam. Biện pháp được triển khai trong chiến lược “Chiến tranh cục bộ” được xem
là “cố gắng quân sự lớn nhất, bước leo thang chiến tranh cao nhất của đế quốc Mỹ
ở miền Nam, cũng là lần đầu Hoa Kỳ đưa nhiều quân nhất đi xâm lược, kể từ sau
Chiến tranh thế giới lần thứ hai”[3]. Đặc
biệt trong lần này, ngoài việc đưa quân Mỹ và đồng minh[4] ồ ạt
vào miền Nam để mở các cuộc tiến công “tìm
diệt” lớn[5];
Hoa Kỳ còn tiến hành dùng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc hòng ngăn cản
sự chi viện từ Bắc vào Nam.
Song dù các tướng lĩnh
Hoa Kỳ và chính phủ Việt Nam Cộng Hoa chuẩn bị thật chu đáo, nhưng với quyết
tâm đánh bại kẻ thù của quân và dân miền Nam Việt Nam đã làm phá sản chiến lược
“Chiến tranh cục bộ” của Hoa Kỳ. Từ những trận đánh đầu tiên như Núi Thành
(26/5/1965), Vạn Tường (18/8/1965) đã giúp cho quân và dân miền Nam tìm ra lời
giải về cách đánh thắng quân đội viễn chinh Hoa Kỳ. Tiếp nối tinh thần của trận
Vạn Tường, quân và dân miền Nam tiếp tục đánh bại quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng
hòa tại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô (1965-1967)[6] một
cách oanh liệt. Tất cả những chiến thắng đó đối với quân đội viễn chính Hoa Kỳ
được xem như “mũi dao” đâm thủng mọi mục tiêu chiến lược “tìm diệt” và “bình định”
mà chính phủ nước này đặt ra cho hai cuộc phản công.
Cũng từ tình thế đó,
các nhà hoạch định và triển khai chiến lược “chiến tranh cục bộ” tại miền Nam
Việt Nam đã bắt đầu phải đối diện với vô số khó khăn, trước khi quân Giảng
phóng miền Nam tổ chức cuộc “Tổng tiến công Tết Mậu Thân” năm 1968.
Trước tiên, với những
thất bại liên tiếp trên chiến trường miền Nam Việt Nam đã gây nên một sự chia rẻ
sâu sắc trong nội bộ chính phủ Hoa Kỳ. Vào giai đoạn đầu, khi chính phủ Hoa Kỳ
tiến hành triển khai chiến lược “Chiến tranh cục bộ” thì đa số những quan chức
cấp cao ở Nhà Trắng và Ngũ giác đài vẫn còn rất hoan nghênh việc làm đó. Họ rất
mạnh dạng trong việc không ngừng ủng hộ mọi biện pháp mạnh để chừng trị miền Bắc
Việt Nam (tức chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa) trong việc tăng cường hỗ trợ
cho lực lượng Việt cộng (tức chỉ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam[7]) tại
miền Nam Việt Nam. Tác giả H.Y.Schandler trong cuốn sách “Sự nghiệp của một tổng
thống bị đổ vỡ Johnson và Việt Nam” đã ghi nhận rằng: các nhà lãnh đạo quân sự
tán thành biện pháp mạnh, dùng đến vũ lực một cách sôi động và hùng hậu vì chỉ
có cách ấy mới có thể gây sức ép đáng kể đối với Bắc Việt Nam[8]. Để
lý giải cho hành động đó, chính phủ của Johnson và quốc hội cho rằng: Hoa Kỳ
coi việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế tại Đông Nam Á rất thiết yếu cho
quyền lợi quốc gia của họ và cho hòa bình thế giới ? Một khi tính chất thiết yếu
của nhiệm vụ chúng ta đã được xác nhận đầy uy tín như thế không một quan chức cấp
cao nào đó có thể đang tâm nuôi dưỡng ý nghĩ rút lui”[9].
Vì đa số những người ở Washington “đều nhất trí rằng mất Nam Việt Nam thì tất cả
Đông Nam Á sẽ mất”[10].
Thế nhưng sự nhất chí ấy
đã liên tục chuyển biến, sau một thời gian thử thách tại chiến trường miền Nam
Việt Nam của quân đội Hoa Kỳ, các nhà lãnh đạo về cơ bản đã có sự phân liệt. Một
nhóm đánh giá việc thực hiện ném bom miền Bắc và đổ quân “tìm diệt” và “bình định”
tại miền Nam còn quá hạn chế và cần phải “mở rộng” hơn sự hạn chế đó. Tư tưởng
này nằm chủ yếu trong giớ quân nhân chóp bu của chính quyền. Tiêu biểu như phát
biểu của Thượng nghị sĩ Stennis Chủ tịch Ủy ban Quân lực tuyên bố rằng: Các vị
tư lệnh quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam không được cung ứng đầy đủ quân lính cần
thiết và việc ném bom miền Bắc lại bị hạn chế quán đáng[11]
hay như của Chủ tịch Menden Rivers của Ủy ban Quân lực Hạ nghị viện còn kêu gọi
Hoa Kỳ nên đánh tan Hà Nội nếu cần, bất chấp dư luận thế giới[12].
Tất cả thể hiện một lối văn hóa giải quyết vấn đề của những người đang dựa vào
tiềm năng quân sự và sức mạnh kinh tế sẵn có của Hoa Kỳ trong những năm đầu thập
niên 60 của thế kỷ XX.
Ngược lại với trên, thì
có những nhân vật cảm thấy cần phải có một giải pháp tăng quân hiệu quả và tiến
hành một cuộc chiến tranh “vô hạn định” để đối phó với lực lượng cách mạng tại
miền Nam Việt Nam và sự chi viện của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền
Bắc. Tiêu biểu cho cánh tư tưởng này chính là bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Mc
Namara. Ông đề nghị nên thay đổi trọng tâm của chiến lược Hoa Kỳ: “Thay vì đánh
bại địch quân bằng các hoạt động tiến công như các vị tư lệnh quân sự thường
kiên trì đề nghị...chủ trương giải pháp nên trở về một tư thế có phần là thế thủ,
bằng cách thu xếp cho chúng ta vào một tư thế quân sự có thể tin rằng chúng ta
có thể duy trì vô hạn định - một tư thế có thể làm cho Bắc Việt Nam/ Việt Cộng thấy việc ngồi chờ cho chúng
ta chán và bỏ đi không còn hấp dẫn nữa”[13].
Hoặc sau khi trình bày chương trình 5 điểm[14] của
mình, Mc Namara đã nhận định: “chỉ có cách là chuẩn bị tinh thần cho một cuộc
chiến tranh lâu dài hơn nhằm chứng minh rõ ràng rằng đối với nhân dân Hoa Kỳ
các phí tổn và nguy cơ kéo dài vẫn còn trong giới hạn chấp nhận được, đã có giải
pháp để thắng lợi và việc kết thúc chiến tranh chỉ là một vấn đề thời gian mà
thôi”[15].
Rõ ràng, chính việc quân đội viễn chính Hoa Kỳ và các nước đồng mình bị sa lầy
sâu hơn trong cuộc chiến tranh Việt Nam đã làm cho mọi sự nhất trí của giới chức
cấp cao trong vấn đề giải pháp chiến trường trở nên viễn vong và khó mà thực hiện.
Nhà báo Don Oberdoifer ghi nhận rằng: “Một số muốn tăng cường ném bom, một số
muốn một sự giải quyết bằng thương lượng và rút quân từng bước còn nhiều người
thì ủng hộ bất cứ cách nào xem ra có thể kết thúc được chiến tranh...”[16] Điều đó, lại chính là nhát dao oan nghiệt đâm
vào tìm một cường quốc thừa tiền, lắm của như Hoa Kỳ, hệ quả là sự thông minh
và tỉnh táo đã bị hạn chế.
Kế đến, xuất hiện một sự
chia rẽ có phần sâu sắc hơn giữa người dân Hoa Kỳ và chính phủ của họ. Nhà báo Don
Oberdoifer đã viết rằng: “Hàng triệu người Mỹ những người có khuynh hướng giao
phó chiến cuộc cho Tổng thống và các tướng lĩnh, bây giờ càng ngày càng thất vọng,
nhức nhối và hoài nghi về cuộc xung đột ở bán đảo Đông Dương. Nhiều người trong
số họ đã chấp nhận chiến tranh như là một cuộc phiêu lưu chống cộng đáng mong
muốn chừng nào mà hành động đó tỏ ra thắng lợi và tương đối ít đau đớn, nhưng rồi
thắng lợi đã trở thành điều có thể bàn cãi và mơ hồ còn sự đau đớn thì ngày càng
tăng”[17] để
miêu tả về tâm trạng người dân Hoa Kỳ thất vọng trong đưa quân sang tham chiến
tại Việt Nam. Hoàn cảnh ở Việt Nam trong giai đoạn từ 1965-1967, thật sự đã tạo
ra một sự chuyển biến sâu rộng trong nhận thức của người Mỹ về cuộc chiến như Don
Oberdoifer ghi nhận: Những cuộc tranh cải của họ không phải về mục đích của cuộc
chiến tranh mà là về khả năng thất bại. Rõ ràng là trong mùa thu năm 1967 những
thay đổi lập trường này phản ánh sự xâm nhập vào thái độ trung gian của phần lớn
dư luận Mỹ, và điều này là nghiêm trọng hơn rất nhiều so với những cuộc đi bộ
hòa bình hay những cuộc khẩu chiến chống chiến tranh. “Không chúng tôi sẽ không
đi” ! trên miệng của những thanh niên phản đối chiến tranh không phải là vấn đề
lớn lao về mặt chính trị đối với chính quyền Giôn xơn. “Chẳng ăn nhằm gì” trên
miệng của các nghị sĩ thuộc phái lưng chừng và các cử tri của họ lại là một vấn
đề nghiêm trọng. Vấn đề này lại càng
nghiêm trọng gấp nhiều lần nếu chiến cuộc ở châu Á lại không tiến triển thuận lợi
đối với họ[18].
Sự chuyển biến tư tưởng ấy tỏ ra mạnh hơn như nhà báo kể: Hầu như tất cả những
người được cử đến Sài Gòn vào năm 1966 và năm 1967 mất hết ý nghĩ rằng đây là một
cuộc chiến tranh khá tốt đẹp ở một vị trí khá tốt đẹp, và hầu hết những người
này sớm hay muộn cũng thay đổi quan niệm
của mình[19].
Thật sự lòng tin và sự chia rẽ trong xã hội Hoa Kỳ xoay quanh cuộc chiến tranh
Việt Nam đã trở thành vấn đề nan giải cho chính quyền Tổng thống Johnson.
Cuối cùng, một trong những
di sản của chiến lược “Chiến tranh cục bộ” tính cho đến trước sự kiện “Tổng tiến
công Tết Mậu Thân” năm 1968 diễn ra, chính là sự lên án và cô lập đến khó thở của
cộng đồng thế giới tiến bộ đối với chính phủ Johnson. Trong khi tổ chức Mặt trận
dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam không ngừng được chào đón và ủng hộ ở nhiều
quốc gia và vùng lãnh thổ, thì đối Hoa Kỳ việc lên án và cô lập lại có chiều hướng
gia tăng. Tiêu biểu của việc lên án cường quốc Hoa Kỳ sự kiện tòa án Bertrand
Russell[20]
xét xử tội ác chiến tranh của Hoa Kỳ ở Việt Nam vào giữa năm 1967 và tội ác
chính phủ đã được phanh phui trong hai phiên tòa tổ chức sau đó. Đây cũng được
coi như là một bằng chứng về sự cô lập đó của Mỹ[21].
Bên cạnh đó còn có Hội nghị Quốc tế lên án chiến tranh hóa học của Hoa Kỳ ở
Pháp và Bắc Âu (1970); hoặc các công tác tăng cường giao lưu hoạt động đối ngoài giữa Mặt trận
dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam với nhân dân tiến bộ thế giới, đặc biệt là
nhân dân Hoa Kỳ để qua đó lên án tội ác của chính quyền Johnson trong cuộc chiến
tranh Việt Nam.
2.Sự kiện “Tổng tiến
công Tết Mậu Thân” năm 1968 tạo ra điều gì cho chính quyền Johnson ?
Trên cơ sở đánh giá và
rút kinh nghiệm chiến thắng trong hai cuộc phản công mùa khô (1965-1967) trước
quân viễn chinh Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa, cũng như những thắng lợi khác trên
mặt trận chính trị và ngoại giao, tại Hội nghị Bộ Chính trị (12/1967) và Hội
nghị toàn thể Ban chấp hành lần thứ 14 (1/1968), thì Trung ương Đảng đã đi đến
quyết định lịch sử: “chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam sang thời kỳ mới
– thời kỳ giành thắng lợi quyết định” và chỉ rõ trong đó: Nhiệm vụ trọng đại và
cấp bách của ta là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên một bước phát
triển cao nhất, bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng
lợi quyết định.
Toàn quân dân miền Nam
tiến hành cao độ công tác chuẩn bị cho cuộc “Tổng tiến công Tết Mậu Thân” một
cách nghiêm túc với tinh thần ý thức cao độ. Đến 20/1/1968, quân giải phóng
đánh đòn nghi binh ở Khe Sanh nhằm thu
hút lực lượng quân viễn chinh Hoa Kỳ. Sau đòn nghi binh chiến lược tại Khe
Sanh, thì vào đêm giao thừa tết Mậu Thân
(31/1/1968)[22],
quân và dân miền Nam đồng loạt tiến công và nổi dậy ở hầu hết các thành phố, thị
xã, thị trấn và vùng nông thôn do chính quyền Việt Nam Cộng hòa kiểm soát. Toàn
bộ cuộc “Tổng tiến công Tết Mậu Thân” được diễn ra trong vòng 3 đợt[23]
và thu được những thắng lợi quan trọng.
Về phía Hoa Kỳ, do bị ảnh
hưởng của tình hình nội bộ đất nước có sự chia rẽ sâu sắc giữa các quan chức cấp
cao chính quyền Johnson, đã làm cho công cuộc chuẩn bị đối phó với một đòn tiến
công mới của lực lượng quân giảng phóng trở nên khó khăn hơn bao giờ hết.
Thứ nhất, các tướng
lĩnh và quan chức Hoa Kỳ đã “loay hoay” trong việc đối phó với sự kiện “Tổng tiến
công Tết Mậu Thân” năm 1968. Vì trong thực tế một cuộc “Tổng tiến công” chiến
lược vào một vùng chiến đấu không phải sở trường của một đội quân cách mạng,
thì họ phải nghĩ đến việc tranh thủ cho bằng được yếu tố “bất ngờ” trong cuộc
chiến đó. Rõ ràng, trước sự chuẩn bị về vật chất và con người cho cuộc Tổng tiến
công của quân giải phóng miền Nam, đã tạo ra những kẻ hở để các lực lượng đặc
biệt của Hoa Kỳ và quân đội Việt Nam Cộng hòa phát hiện được. Theo H.Y.Schandler
cho biết kế hoạch của quân Việt cộng và Bắc Việt Nam đã bị lộ cụ thể là: sẽ có
một cuộc tổng phản công và tổng nổi dậy, nhằm dụ các đơn vị đồng minh ra các
vùng biên giới để cho cộng sản chi phối quân lực và chính quyền của nước này đồng
thời buộc Hoa Kỳ phải rút quân khỏi Nam Việt Nam trong thời gian ngắn. Quả thật
chỉ thị tấn công ban hành cho lực lượng cộng sản đã lọt vào tay quân đội Hoa Kỳ
ngày 19/11/1967 [24].
Hay như chính tướng Westmoreland (Tổng chỉ huy quân đội Mỹ tại miền Nam) cũng
viết rằng: người phụ tá của tôi ở Sài Gòn tướng Abrams đã điện cho tôi biết nội
dung một tài liệu địch bắt được ở gần Dak To kêu gọi có “một nổ lực tấn công tập
trung phối hợp với các đơn vị khác ở các chiến trường khắp Nam Việt Nam”[25].
Còn theo tác giả Gabriel Kolko trong cuốn sách “Giải phẫu một cuộc chiến tranh
- Việt Nam, Mỹ và kinh nghiệm lịch sử hiện đại” đã nhấn mạnh rằng: Đầu tháng mười
hai, tất cả mọi người của Oa-sinh- tơn chính thức, hoàn toàn biết về một “cuộc
tiến công tổng lực” sắp xảy ra[26].
Thế nhưng vì họ chưa hiểu về “đối thủ” của mình, nên đã có những cách đối phó
không hiệu quả và dẫn đến việc bị động trong cuộc chiến.
Theo tướng Westmoreland
cho biết : tôi không có ý định cứ ngồi chờ hành động của địch. Tốt hơn hết là
đi vào chiến đấu, với hy vọng giành các cuộc tấn công của chúng để ngăn chặn bất
kỳ cuộc tấn công nào mà địch đã dự định và ít ra cũng ngăn không cho địch đẩy
các căn cứ của họ ra khỏi các vùng biên giới[27].
Nên vì thế mà vị tướng này cũng sẵn sàng lao vào chiếc bẫy nghi binh mà quân giải
phóng miền Nam bày ra để lôi kéo sự chú ý của giới chức quân sự Hoa Kỳ[28].
Còn Gabriel Kolko thì ghi nhận rằng: Oét-mo-len khao khát cuộc chiến đấu cổ điển
và bất chấp sự suy xét tốt hơn của nhiều sĩ quan Mỹ, đã tìm cách kéo 20.000 quân
đội nhân dân vào đối đầu với 6.000 quân của mình và sử dụng 100.000 tấn đạn dược
chống lại họ...Vào cuối tháng 2, với một nửa các tiểu đoàn cơ động tập trung vào
vùng chiến thuật, Oét-mo-len đã rơi vào một chiếc bẫy rõ rệt[29].
Nhận xét cuối cùng của tác giả người Nhật nghe có vẻ rất mỉa mai viên tướng nổi
tiếng của Hoa Kỳ.
Thật trớ trêu cho các lực
lượng chiến đấu của Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam, một sự kiện được biết trước,
nhưng lại không ai đưa ra những quyết định đối phó có giá trị về việc này. Tướng
Westmoreland thì chủ quan nhận định rằng: Trước sức mạnh của Mỹ và Nam Việt
Nam, nếu Việt cộng và Bắc Việt Nam từ những nơi ẩn náu xuất hiện khắp cả nước
thì chỉ chốt lấy tổn thất bi thảm và thất bại chắc chắn.Việc cộng sản tăng cường
binh lực lớn ở khu phi quân sự và ở Khe Sanh đã là một thực tế, rất hợp logích
và có nhiều hứa hẹn cộng sản mở các cuộc tấn công nghi binh ở các nơi khác
trong khi đó tập trung lực lượng để tạo ra một cái giống như Điện Biên Phủ ở
Khe Sanh và chiếm lấy hai tỉnh phía Bắc[30].
Hay ngay cả việc một bản kế hoạch về một cuộc Tổng tiến công sẽ diễn ra của Việt
cộng được công bố trên các phương tiện truyền thông thì: báo chí của Hoa Kỳ đã
dè dặt lưu ý rằng đừng nên xem đấy là bằng chứng quả thực đã có chỉ thị ấy và có thể đây chính là một văn kiện tuyên
truyền nội bộ nhằm kích động các bộ đội chiến đấu[31]. Cũng
có những người thì nhận ra được tầm ảnh hưởng nhưng lại xác định sai thời gian
như Đô đốc Shap Tư lệnh Thái Bình Dương báo cho Washington (vào 26/12/1967) biết
rằng: đa số những bằng chứng của chúng ta có được đều cho thấy sắp đến một giai
đoạn quan trọng chứ chưa hẳn đã là chung cuộc của hoạt động địch. Có thể là địch
đang nghĩ đến việc thay đổi nhiều hơn nữa lối tiến hành chiến tranh trong tương
lai. Không loại bỏ hẳn khả năng một cố gắng quyết liệt trong trận tấn công Đông
Xuân một ngày nào đó sau Tết nhưng vẫn phải kể là còn xa vời[32]. Sự
đánh giá này, cũng tương đồng với tướng Westmoreland khi cho rằng: Chúng tôi
cũng thực tình cho rằng họ sẽ không dám liều đi ngược lại tâm lý quần chúng tấn
công ngay trong những ngày Tết. Cho nên tôi nghĩ rằng họ sẽ đánh hoặc trước hoặc
sau Tết. Tôi cũng không dự kiến là họ sẽ đánh tại các đô thị và lấy đây là mục
tiêu tấn công[33].
Đến đây, chúng ta đã hiểu vì sau yếu tố “bất ngờ” trong cuộc Tổng tiến công Tết
Mậu Thân vào năm 1968 của quân dân miền Nam vẫn phát huy được tác dụng tích cực
trong đợt I.
Thứ hai, quân đội Hoa Kỳ
dù có thật sự tinh nhuệ như vẫn buộc phải “phối hợp” với quân đội Việt Nam Cộng
hòa trong một cuộc chiến đầy mâu thuẫn. Đây là một vấn đề được rất nhiều sử gia
cũng như giới chuyên gia quân sự quan tâm và đánh giá. Vì thực tế trong chiến
lược “Chiến tranh cục bộ” thì quân đội Việt Nam Cộng hòa là một lực lượng giữ
vai trò không kém phần quan trọng trong việc thực hiện chính sách “bình định”
và “kiềm kẹp” quần chúng nhân dân tại Nam Việt Nam. Các thanh niên Hoa Kỳ dù có
được huấn luyện kỹ càng như thế nào đi nữa, thì vẫn bị chính sự xa lạ về không
gian, địa hình, khí hậu, con người tại Việt Nam làm cho hạn chế khả năng tác
chiến. Tác giả Gabriel
Kolko phân
tích rằng: Học thuyết chiến tranh hạn chế của Mỹ vào năm 1967 bị núi rừng bao
la của Việt Nam chặn đứng lại và tại đây chủ lực của Cách mạng kéo số lượng lớn
lính Mỹ vào trò chơi đuổi bắt[34].
Chiến trường Việt Nam đúng là một “địa ngục” với những người quân nhân trẻ từ
Hoa Kỳ hay Australia, New Zealand sang chiến đấu, có lẽ với đất nước Việt Nam họ
chỉ có thể thấy được “ bầu trời” là quen thuộc!
Còn về lực lượng quân đội
Việt Nam Cộng hòa, thì điểm yếu nhất của họ là khó thể tách ra tác chiến độc lập
và chủ động trên chiến trường mà mình có lợi thế nhất. Vấn đề này có nhiều
nguyên nhân, nhưng có lẽ nguyên nhân cốt yếu nhất vẫn là do sự yếu kém của hệ
thống các tướng lĩnh chỉ đạo. Tác giả Gabriel Kolko đã nhận định rằng: Việt Nam cộng hòa
không thể trở thành một cơ cấu thay thế được cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng và
vai trò lãnh đạo của họ phản ánh cuộc khủng hoảng xã hội Việt Nam trong thế kỷ
này và cho thấy không có một cơ sở vững chắc cho giai cấp thống trị địa phương[35].
Tệ hơn thế nữa, Quân đội của họ là một bộ máy chính trị dựa vào sự tham nhũng
được thể chế hóa ở cấp cao, và bị đói ăn, mất tinh thần ở dưới dáy[36].
Rõ ràng một sự mâu thẫu to lớn vốn ràng buộc vào số phận của chính quyền Việt
Nam Cộng hòa từ những ngày đầu khi “chọn lấy vĩ tuyến 17 làm đường biên giới quốc”
cho đến khi đêm trước của cuộc Tổng tiến công nổ ra, Sài Gòn luôn trong khủng
hoảng về chính trị. Chính Westmoreland đã viết về hàng tướng lĩnh của Việt Nam
Cộng hòa rằng: Tác động chỉ ở cấp lãnh đạo bên trên – các tư lệnh quân đoàn và
sư đoàn – những người không muốn liều mạng hoặc hành động một cách quyết định[37] và
hình như vị tướng Hoa Kỳ này khá chua chát trước hành động cá nhân của một viên
tướng khi: cuộc tấn công mà người ta chờ
đợi từ lâu vào Pleiku đã diễn ra khiến tướng Vĩnh Lộc vội vã từ Sài Gòn trở về,
hình như lo cho biệt thư của ông hơn là cho trận đánh nói chung[38].
Tất cả những yếu tố nội bật vừa nêu, đã nói lên được sự thất bại của quân đội
viễn chính Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa chỉ là một vấn đề thời gian. Vì sự “kết
hợp” tưởng chừng như “hoàn hảo” của giới quan chức chóp bu trong chính quyền
Johnson đã thật sự thiếu quá nhiều nhân tố tạo nên sự vững chắc mang đến một
chiến thắng chung cuộc cho hai đồng minh này!
Thứ ba, chính phủ
Johnson đã bị chính nền truyền thông phát triển của đất nước “tố cáo” trước quần
chúng nhân dân Hoa Kỳ. Như đã trình bày ở chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, người
dân của Tổng thống Johnson đã từ từ nghiêng hẳn về phe chống lại chiến tranh Việt
Nam, bởi họ đã dần dần nhận ra rằng cuộc chiến này vốn không thể chiến thắng.
Nhà báo Don Oberdoifer trong cuốn “Tết” đã cho thấy diễn biến của người dân Hoa
Kỳ ngày càng diễn biến phức tạp khi cuộc Tổng tiến công diễn ra vào đúng tết cổ
truyền Việt Nam: Tại Mỹ, sự bất ngờ và cơn giận dữ trong những ngày đầu sau cuộc
tấn công Tết Mậu Thân đã nhường bước cho sự thất vọng và tiếp đó trở thành cảm
giác chán chường. Trước cuộc chiến đấu ác liệt và đẫm máu mà thắng lợi lớn của
quân đồng minh chẳng thấy ở đâu, nhiều người Mỹ bắt đầu bác bỏ toàn bộ sự việc,
quay lưng đi và từ bỏ chiến tranh. Lòng tin cậy mỏng manh vào thắng lợi của Mỹ
hồi tháng 11 đã bị đợt tấn công đầu tiên đánh tan tành và đến nay, ngay cả hi vọng
hình như cũng ngày càng mờ nhạt[39].
Vốn là một trong những nhà báo đã có mặt tại miền Nam Việt Nam đúng vào lúc sự
kiện “Tết” diễn ra, nên ông đã hiểu sự thật của cái gọi là “khả năng cơ động”
mà quân viễn chinh đất nước mình đã tự hào. Ngoài nhà báo Oberdoifer, thì trên
chiến trường miền Nam Việt Nam khi cuộc tiến công của Việt cộng xảy ra còn có
khá nhiều các nhân viên báo đài khác cùng đồng loạt săn tin và đưa tin về tình
hình chiến sự. Điều đó thật sự trở thành “thảm họa” đối với chính quyền Johnson
và các tướng lĩnh của ông, như mô tả của H.Y.Schandler: Quá nhiều chương trình
truyền hình trình bày về cuộc tấn công đã làm cho trong các gia đình người Mỹ
thấy ngay quan cảnh máu lửa chết chóc và tàn phá của chiến trường và đã là nhân
tố chính yếu làm cho dân chúng hình dung được những gì đã thực sự xảy ra tại chiến trường trong cuộc tấn công của Việt Cộng.
Cảnh tấn công vào tòa đại sứ Hoa Kỳ và cảnh tướng Loan, Tổng giám đốc cảnh sát
quốc gia Việt Nam công khai xử tử một phần tử khủng bố Việt cộng, đặc biệt đã làm
cho người ta phải hoang mang[40].
Nhận định có phần chua cay nhất vẫn là ở tướng Westmoreland khi cho rằng: Thái
độ của các nhà báo Mỹ chắc chắn đã góp phần vào thắng lợi tâm lý mà địch đã
giành được ở Mỹ. Liệu người ta còn nghe tôi nữa không khi họ nói rằng các bứt
tường đều đổ trong khi tôi biết rằng tường không đổ ? Rằng địch đang thắng khi
tôi biết rằng địch đang trên bờ vực của một thất bại quân sự thảm hại ? Tuy có
ghi nhận ý kiến của tôi nói rằng địch không vào được sứ quán, một nhà báo có viết thêm rằng căn cứ vào các
nguồn khác – nghĩa là tin đồn, nhưng không được xác định – thì lại khác[41]
hay đại loại như một chỉ trích về cách khai thác thông tin của truyền thông Hoa
Kỳ nhằm để phục vụ cho thị hiếu quan tâm của người đọc trong nước qua nhận định:
Trong cuộc chạy đua để thu lượm mọi chi tiết giật gân của câu chuyện sứ quán, các
nhà báo rõ ràng ít chịu kiểm tra thực tế mà chỉ lo được lời khen của tòa báo ở
nước nhà do đưa tin nhanh hơn người khác mà thôi...Thử hỏi những lối đoán mò đó
có đúng không ? có phải nỗ lực lâu dài và tốn kém của Mỹ ở Việt Nam có bị hy
sinh đi vì những bọn tôn sùng cái giật gân và sự cạnh tranh không ?[42].
Có lẽ đó là một sự đổ lỗi khôi hài của một viên tướng cấp cao trước sự tấn công
của dự luận Hoa Kỳ về những sai lầm trong chính sách can thiệp vũ trang tại Nam
Việt Nam của nước nay. Sự thật cuộc “Tổng tấn công Tết Mậu Thân” đã để lại cho
nền quân sự Hoa Kỳ nhiều bài học lớn trong việc triển khai các cuộc chiến
tranh, như nhận định của một tác giả người Nhật khi thấy được: Những thắng lợi
của những số nhỏ chiến sĩ như vậy mà chủ yếu là thuộc Mặt trận Dân tộc Giải phóng
và một số Quân đội nhân dân Việt Nam chắc chắn là một trong những bài học cay đắng
nhất trong chiến đấu với Mỹ[43].
Còn tác động về xã hội
của cuộc tiến công thì thật là to lớn, vì từ sau đó, liên tục có sự đão hướng
trong tư tưởng của người dân Hoa Kỳ, cũng như hàng quan chức cao cấp tại Quốc hội
và Nhà Trắng. Nhà báo Don Oberdoifer cho biết: Đầu tháng 1, phái diều hâu ban đầu
còn nhiều, đến cuối tháng 2 đã nổi lên một làn sóng bi quan về vị thế quân Mỹ.
Đến giữa tháng 3, phái diều hâu đã sụt xuống dưới mức thấp hơn bất kỳ thời kỳ
nào trước đây và số người Mỹ đòi giảm bớt cam kết của Mỹ ở Việt Nam đã tăng
lên. Từ trước đến nay, đây là lần đầu tiên mà phái diều hâu trong quần chúng ít
hơn phái bồ cầu[44].
Từ đó, ta cũng thấy được sức mạnh của một nền báo chí truyền hình thuộc loại hiện
đại nhất thế giới lúc bấy giờ, đã giúp đưa những hình ảnh, thông tin thật của
cuộc tổng tiến công đến tận mọi nơi trên thế giới. Đặc biệt, ngay chính tại thủ
đô Washington đã nổ ra một cuộc chiến mạnh mẽ hơn bao giờ hết liên quan đến việc
người dân đòi chính quyền Johnson phải “rút quân” để tránh bị thương vong cho
chồng và con em nhân dân đất nước họ.
3. Sự kiện “Tổng tiến
công Tết Mậu Thân” năm 1968 cho ta thấy được gì về nhân dân Việt Nam ?
Thứ
nhất, sự độc lập và thống nhất lãnh thổ là mục tiêu hàng đầu để mọi người dân
Việt Nam đứng lên chống lại kẻ thù. Biểu hiện cụ thể nhất cho vấn đề độc lập và
thống nhất lãnh thổ là mọi người dân Việt Nam đều có một lòng yêu nước mãnh liệt.
Lòng yêu nước đó đã trở thành tinh thần dân tộc Việt có xuyên suốt trong chiều
dài lịch sử. GS Trần Văn Giàu đã đúng khi nhận định lòng yêu nước còn là một
tiêu chuẩn cho sự xác định tốt xấu, đúng sai, chính nghĩa hay phi nghĩa, nên
hư…mà cái tinh thần ấy không phải mới sinh ra con người Việt Nam đã có. Nó phải
được hun đúc trong mấy nghìn năm văn hiến mới có được. Bởi vì trong quá trình dựng
nước và giữ nước, dân tộc Việt cổ định cư trên một khu vực vừa phì nhiêu trù
phú, lại án ngữ trên con đường giao thông phương Bắc với phương Nam nên sớm là
đối tượng để các thế lực phương Bắc xâm lược độc chiếm. Kẻ thù ấy lại thường mạnh
hơn ta rất nhiều lần như: đế chế Tần từng gồm thu lục quốc; hay các triều đại
Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh…đến thời cận hiện đại thì Pháp, Nhật, Mỹ
cũng đều tham gia chiếm giữ cái “nút thắc” của Đông Dương này. Điều đó đã khiến
cho cư dân Việt từ rất sớm phải đứng lên lại để chống giặc ngoại xâm theo cái
lý:
“Việc
nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân
điếu phạt trước lo trừ bạo”
Trong cuộc sống đời thường
của người dân Việt Nam, họ thường nói với nhau câu “Nước mất nhà tan”, để cho
thấy sự gắn kết hữu cơ giữa lợi ích đất nước (độc lập dân tộc) với lợi ích gia
đình (tự do cá nhân). Mọi sự hiềm khích vì lợi ích các nhân dường như bị xóa mờ,
trước nhiệm vụ chung là đuổi giặc. Vì nếu để cho dân tộc bị mất độc lập thì cái
lợi ích của mỗi cộng đồng dân cư, mỗi gia đình, mỗi cá nhân cũng không còn. Hệ
trọng hơn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam là sự nghiệp
“thống nhất đất nước”, vì trong nhận thức của người Việt “Đất nước Việt Nam là
một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy
không bao giờ thay đổi”. Sau 50 nhìn lại một sự kiện lịch sử, chúng ta thật sự
phải thán phục những người con ưu tú của dân tộc đã sẵn sàn hy sinh tất cả cho
độc lập dân tộc và thống nhất nước nhà. Tổn thất sau sự kiện Tết Mậu Thân 1968
là to lớn[45]
và để lại nhiều kinh nghiệm sâu sắc cho cách mạng miền Nam như đã có nhận định
rằng: Tư tưởng “tích cực tiến công”, “kiên quyết và liên tục tiến công”, “càng
đánh càng mạnh”, “đợt sau cao hơn đợt trước”, “tiến lên giành thắng lợi quyết định”
trong Tổng công kích – tổng khởi nghĩa Mậu Thân đợt II, đợt III khi yếu tố bí mật
bất ngờ không còn đã làm cho Quân giải phóng càng đánh càng suy kiệt, yếu đi
trước đội quân xâm lược nhà nghề thiện chiến mạnh hơn nhiều lần về lực lượng,
vũ khí và trang thiết bị quân sự. Sự suy yếu của Quân giải phóng từ sau Tổng
công kích – tổng khởi nghĩa Mậu Thân đợt II, đợt III đã tạo điều kiện thuận lợi
cho đối phương tập trung toàn lực đánh phá toàn diện lực lượng kháng chiến trên
mọi mặt trận[46].
Nhưng phải thừa nhận không thể chối cãi, các chiến sĩ quân giải phóng của cách
mạng Việt Nam đã sẵn sàng hy sinh tất cả cho cuộc chiến, cho một lý tưởng cao đẹp
vì dân tộc, mà tác giả Gabriel Kolko đã ghi nhận cụ thể rằng: Vì mục đích tinh
thần, cuộc tổng tiến công và khởi nghĩa được mô tả là có tính chất quyết định làm
cho so sánh lực lượng chuyển biến có lợi cho thắng lợi cuối cùng của Cách mạng.
Để làm cho Tết trở thành điểm ngoặt của chiến tranh và là điều kiện tiên quyết
thiết yếu cho thắng lợi hoàn toàn cuối cùng, những người sắp bước vào chiến đấu
được kêu gọi hy sinh tối đa và làm tất cả để tạo ra thắng lợi càng lớn càng tốt[47].
Một vấn đề khác cũng cần
phải thừa nhận rằng, tình thần yêu nước và đấu tranh cho dân tộc còn được thể
hiện trong chính những người lĩnh Việt Nam Cộng hòa. Dù chúng ta biết họ đã xác
định chưa chính xác thế nào là “quốc gia” và “dân tộc”, nhưng khi xem vĩ tuyến
17 là đường biên giới của quốc gia Việt Nam Cộng hòa họ cũng đã chiến đấu một
cách oanh liệt mà những người lình này có thể chiến đấu được. Chính tướng
Westmoreland đã ghi nhận rằng: Một số cá nhân riêng lẻ đã không làm tròn nhiệm
vụ, một chỉ huy nào đó đã tỏ ra kém cỏi, nhưng trên đại thể, khi đứng trước sự
thử thách gian nguy, không một đơn vị nào của quân đội Nam Việt Nam là bỏ cuộc
hoặc đào ngũ. Quân Nam Việt Nam đã hoàn toàn đáp ứng lòng tin cậy của tôi[48],
dù ở một nhận định khác thì ông ta cho rằng: Vì thiếu phương tiện giao thông,
những người khác thấy không trở lại đơn vị được dù có cố gắng đến mấy đi nữa.
Những người khác thấy trong lúc lâm nguy họ cần ở nhà để bảo vệ gia đình. Lực lượng
thực tế ở hầu hết các đồn bót cảu quân đôi Nam Việt Nam chỉ có 50 phần trăm hoặc
ít hơn[49].
Điều này cũng dễ hiểu, như đã trình bày ở phần trên người lính Việt Nam Cộng
hòa đang chiến đấu cho một chính quyền liên tục bị khủng hoảng về chính trị và
đặc biệt là khó có thể tồn tại độc lập trước một loạt các phong trào chống
chính quyền ở đô thị. Chính Gabriel Kolko nhận định: vấn đề đô thị cũng bộc lộ
một chỗ yếu cơ bản của cố gắng Mỹ. Nếu có nhiều người trong vùng đô thị vì lý
do này hoặc lý do khác đã không đi với Mặt trận Dân tộc Giải phóng, thì họ cũng
không ủng hộ Việt Nam cộng hòa, vì Việt Nam cộng hòa không tranh thủ được sự
trung thành chính trị của nhân dân[50].
Song sự chiến đấu vì lý tưởng của những người lĩnh cộng hòa cũng không nằm
ngoài phạm vị những tính cách văn hóa vốn có của con người Việt Nam.
Thứ hai, người Việt Nam
sẽ rất mạnh khi biết đoàn kết. Lịch sử dân tộc Việt Nam xuyên suốt trong mấy
ngàn năm là một minh chứng hùng hồn cho vấn đề này. Cũng chính trong cái gốc “kẻ
thù” của chúng ta thường mạnh hơn mình rất nhiều lần, ông cha ta đã phải chọn
con đường đoàn kết lại để đánh giặc. Từ rất sớm, trước sự xâm lược của nhà Tần
hai tộc người Lạc Việt và Tây Âu phải cùng nhau liên kết lại chống giặc; khi
quân Mông – Nguyên 3 lần sang đánh Đại Việt thì cả 3 lần triều Trần vận động
toàn dân kết nối từ miền xuôi đến miền ngược, từ người già đến người trẻ cùng
đoàn kết “sát thát” kẻ thù chung. Đến cuộc kháng chiến chống Pháp thì chủ
trương của Đảng ta là “Toàn dân toàn diện” đó là một sự kết thừa phát huy cái
tinh thần yêu nước của toàn dân tộc trong nghệ thuật chiến tranh nhân dân cực kỳ
hiệu quả. Rồi đến khi Hoa Kỳ đưa quân vào miền Nam Việt Nam cũng bị mắc vào
chính cái thế của một đội quân đi xâm lược một dân tộc khác thì không thể nào
có được cái sức bắt nguồn từ “lòng dân”.
Các tướng lĩnh cấp cao
của Mỹ luôn chủ quan và cho rằng có thể đánh dẹp được lực lượng quân cách mạng như tác giả H.Y.Schandler trình bày: Các
giới cầm quân nói rằng các hoạt động quân sự tiến công và trường kỳ sẽ giúp cho
Hoa Kỳ nắm được thế chủ động tại cả Bắc lẫn Nam Việt Nam. Khả năng yểm trợ chiến
tranh của Bắc Việt Nam sẽ dần dần bị tiêu diệt và Việt Cộng sẽ bị đánh bại[51].
Hay chính tướng Westmoreland đã nhận định trước khi cuộc tiến công diễn ra rằng:
Tôi tin rằng dù địch có mưu toan gì, các lực lượng của Mỹ và Nam Việt Nam cuối
cùng có thể đánh bại được[52]
hay đại loại như: Còn về cuộc tấn công lớn khắp cả nước, địch khi đã xuất hiện
công khai tức là đã tự mình phơi trần ra. Hoàn thành ý thức được sức mạnh và khả
năng của Mỹ và Nam Việt Nam, tôi không do dự gì mà nói rằng địch đang chuốc lấy
thất bại[53].
Thế nhưng có lẽ một lần nữa kể từ khi người Pháp bị đánh bại tại Điện Biên Phủ,
thì các tướng lĩnh và quan chức cấp cao của Hoa Kỳ cũng mắc phải căn bệnh xem
thường đối phương hay có thể là “không hiểu gì về người Việt Nam”. Dân tộc Việt
Nam tuy đất không rộng, quân không đông và trang bị kém hiện đại hơn quân đội
Hoa Kỳ và đồng minh nhiều, sức mạnh đoàn kết và chiến đấu vì lý tưởng mới chính
là “đòn xeo” quan trọng để tạo ra mọi thắng lợi trên chiến trường. Một khi đã
xác định được kẻ thù thì dù gian nguy đến mấy quân dân toàn miền Nam cũng đều
nhất tề đứng lên diệt giặc. Tiêu biểu như câu ca trên miệng người dân Củ Chi thời
chống Mỹ:
Là dân Củ
Chi, diệt thù ta cứ đi
Vượt qua
lửa đạn, hiểm nguy ta không ngại gì
Diệt giặc
Mỹ bằng pháo bom của Mỹ
Đất lửa
hoa hồng, là đất anh hùng Củ Chi.[54]
Như đánh giá của tác giả
Gabriel Kolko: Bấy giờ người Mỹ tiết lộ rằng họ đã không hiểu chiến lược và khả
năng của kẻ thù cũng như không hiểu cả chính mình. Tết đã đưa Oa-sinh-tơn đến
thực tế rằng Mỹ không nắm được một cách cơ bản tính chất cuộc chiến tranh mà họ
đã cam kết nửa triệu quân nhân[55]hoặc
như nhà báo: Thực ra, phía Mỹ chưa bao giờ biết thực sự lực lượng tấn công của
Bắc Việt Nam và Việt cộng và thương vong của họ là bao nhiêu trong Tết Mậu Thân[56].
Tất cả đã cho thấy sự kỳ diệu trong cuộc Tổng tiến công Tết chính là ở chỗ bất
ngờ nối tiếp bất ngờ. Người Hoa Kỳ đã không thể hiện được rằng: muốn chiến thắng
lực lượng cách mạng Việt Nam không phải chỉ qua súng đạn hay xe tăng máy bay là
đủ. Vì toàn dân tộc Việt Nam luôn kề vai sát cánh để đánh đuổi kẻ thù chung. Mọi
quy ước về chiến tranh hiện đại đều là vô nghĩa trước cuộc chiến tranh của dân
tộc Việt Nam nhỏ bé này. Có lẽ trong số ít những quan chức cấp cao trong chính
quyền Johnson thì nguyên bộ trưởng quốc phòng Robert S.Mc
Namara đã hiểu ra được vấn đề và đã ghi lại rằng: Khi đó chúng ta không nhận
ra được những hạn chế của các thiết bị quân sự kỹ thuật cao và hiện đại, lực lượng quân sự và học thuyết quân sự trong khi
đối đầu với những phong trào nhân dân được thúc đẩy cao và không bình thường.
Chúng ta cũng đã không điều chỉnh được chiến thuật quân sự của chúng ta cho phù
hợp với nhiệm vụ chinh phục trái tim và khối óc của người dân thuộc một nền văn
hóa hoàn toàn khác[57].
Chính cái không hiểu “một nên văn hóa hoàn toàn khác” so với văn hóa đất nước
Hoa Kỳ, đã khiến quân viễn chinh của họ sa lầy một cách đau thưởng tại Việt
Nam.
Tóm lại, qua việc điểm
lại những đặc điểm chính trong một lát cắt văn hóa của dân tộc và xã hội Hoa Kỳ,
chúng ta thấy được những điểm yếu không thể khắc phục trong toàn bộ chiến lược
chiến tranh của chính phủ Johnson từ khi mới bắt đầu cuộc chiến cho đến khi kết
thúc cuộc “Tổng tiến công Tết Mậu Thân” năm 1968. Tất cả những điều được trình bày ở trên, cũng phần
nào lý giải những giá trị xuyên suốt trong văn hóa của con người Việt Nam,
thông qua việc nhìn nhận diễn tiến của sự kiện lịch sử quan trọng này. Từ đó,
trong mỗi chúng ta nên thấy phải tiếp tục gìn giữ và phát huy những giá trị tốt
đẹp, những tinh thần cao quý trong thời kỳ kháng chiến. 50 để nhìn lại một sự
kiện lịch sử như cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân năm 1968 đã cho chúng ta thấy
được: bản thân sự kiện này còn chất chứa nhiền vấn đề lý thú đang thách thức
các nhà khoa học tiếp tục cần làm sáng tỏa.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
1.Ban Chỉ đạo tổng kết
chiến tranh (1995), Tổng kết cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi và bài học, NXB CTQG, HN.
2. Bộ tư lệnh Quân khu
7(2016), Lịch sử quân giải phóng miền Nam
Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976,
NXB CTQG, HN.
3. Don
Oberdoifer (1988), Tết, dịch Hà Nguyễn,
NXB Tổng hợp An Giang.
4. Nguyễn Đức Hòa
(2016), Giáo trình lịch sử Việt Nam
1945-1975, NXB GD, HN.
5. H.Y.Schandler
(1999), Sự nghiệp của một tổng thống bị đổ
vỡ Johnson và Việt Nam, người dịch Nguyễn Mạnh Hà, NXB TP.HCM.
6. Gabriel Kolko
(2003), Giải phẫu một cuộc chiến tranh -
Việt Nam, Mỹ và kinh nghiệm lịch sử hiện đại, người dịch Nguyễn Tấn Cưu,
NXB QĐND.
7. Nhiều
tác giả (1978), Truyện và ký về Củ Chi,
NXB TP.HCM.
8. Nguyễn Đình Thống
(chủ biên) – Dương Thành Thông – Nguyễn San Hà (2015), Củ Chi
xưa và nay, NXB Văn hóa – Văn nghệ, TP.HCM.
9.Robert S.Mc Namara
(1995), Nhìn lại quá khứ tấm thảm kịch và
những bài học về Việt Nam, NXB CTQG, HN.
10. Viện sử học (2014),
Lịch sử Việt Nam tập 13, từ năm 1965 đến
năm 1975, NXB KHXH, HN.
11. William. C.
Westmoreland (1988), Tường trình của một
quân nhân, Trích bản dịch của của Phòng khoa học Quân khu 9, NXB Trẻ.
THAM LUẬN TẠI HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
"50 CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN (1968-2918):
GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN"
TẠI ĐH THỦ DẦU MỘT
[1] GV Trường THTH
Sài Gòn (thuộc Đại Học Sài Gòn) Q5 - TP.Hồ Chí Minh.
[2] Kế hoạch có 3
giai đoạn: 1. Phá hoại kế hoạch mùa mưa của ta, ngăn chặn chiều hướng thua bằng
việc bảo đảm triển khai nhanh lực lượng quân viễn chinh Mỹ; 2. Mở các cuộc phản
công chiến lược tìm diệt chủ lực ta và kiểm soát vùng nông thôn; 3. Hoàn thành
việc tiêu diệt khối chủ lực của ta và tiếp
tục bình định miền Nam, trước khi rút
quân về nước vào cuối năm 1967.
[3] Ban chỉ đạo tổng
kết chiến tranh (1995), Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi
và bài học, NXB TCQG, HN, tr 59.
[4]Năm nước đồng
minh của Mỹ có đưa quân sang miền Nam Việt Nam gồm: Nam Triều Tiên, Thái Lan,
Philippines, New Zealand, Australia.
[5] Lính Hoa Kỳ có mặt
ở miền Nam Việt Nam cuối năm 1964 là 26.000 quân, cuối năm 1965 tăng lên
200.000 quân và đến cuối năm 1967 lên tới
537.000 quân, chưa kể đến 70.000 lính hải quân, không quân của Hạm đội 7 và các
căn cứ quân sự trong khu vực Đông Nam Á.
[6] Trong mùa khô
1965-1966, quân giải phóng đã loại khỏi vòng chiến đấu 104.000 quân giặc, bắn
rơi và phá hủy 1.430 máy bay, diệt 600 xe tăng và thiết giáp… Đến mùa khô
1966-1967, quân giải phóng đã loại khỏi vòng chiến 151.000 quân giặc (chủ yếu
là quân Hoa Kỳ), bắn rơi và phá hủy 1.213 máy bay, phá hủy 1.627 xe tăng và thiết giáp…
[7] Tổ chức tiền
thân của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (1969).
[8] H.Y.Schandler
(1999), Sự nghiệp của một tổng thống bị đổ vỡ Johnson và Việt Nam, người dịch
Nguyễn Mạnh Hà, NXB TP.HCM, tr 36.
[9] H.Y.Schandler
(1999), Sự nghiệp của một tổng thống bị đổ vỡ Johnson và Việt Nam, người dịch
Nguyễn Mạnh Hà, NXB TP.HCM, tr 35.
[10] H.Y.Schandler
(1999), Sự nghiệp của một tổng thống bị đổ vỡ Johnson và Việt Nam, người dịch
Nguyễn Mạnh Hà, NXB TP.HCM, tr 35.
[11] H.Y.Schandler
(1999), Sự nghiệp của một tổng thống bị đổ vỡ Johnson và Việt Nam, người dịch Nguyễn
Mạnh Hà, NXB TP.HCM, tr 97
[12] H.Y.Schandler
(1999), Sự nghiệp của một tổng thống bị đổ vỡ Johnson và Việt Nam, người dịch
Nguyễn Mạnh Hà, NXB TP.HCM, tr 97.
[13] H.Y.Schandler
(1999), Sự nghiệp của một tổng thống bị đổ vỡ Johnson và Việt Nam, người dịch
Nguyễn Mạnh Hà, NXB TP.HCM, tr 89-90.
[14] Vốn khác hẳn kế
hoạch chiến tranh do các vị tư lệnh quân sự, Mc. Namara đề ra: 1) Loại trừ trường
hợp chiến tranh đột biến,...thôi đừng vượt quá tổng số quân 470.000 quân ; 2)
Nên lập một hàng rào chống xâm lược ngang vùng eo biển Nam Việt Nam gần vĩ độ
17 và chặn ngang các đường mòn xâm nhập ở Lào; 3) Giữ nguyên chương trình Sấm Rền
đánh miền Bắc ở mức độ hiện tại; 4) Xúc tiến các chương trình bình định tích cực;
5) gia tăng các triển vọng đàm phán chấm dứt chiến tranh.
[15] H.Y.Schandler
(1999), Sự nghiệp của một tổng thống bị đổ vỡ Johnson và Việt Nam, người dịch
Nguyễn Mạnh Hà, NXB TP.HCM, tr 90-91
[16] Don Oberdoifer
(1988), Tết, dịch Hà Nguyễn, NXB Tổng hợp An Giang, tr 44.
[17] Don Oberdoifer
(1988), Tết, dịch Hà Nguyễn, NXB Tổng hợp An Giang, tr 39.
[18] Don Oberdoifer
(1988), Tết, dịch Hà Nguyễn, NXB Tổng hợp An Giang, tr 46.
[19] Don Oberdoifer
(1988), Tết, dịch Hà Nguyễn, NXB Tổng hợp An Giang, tr 49
[20] Từ Ủy ban Điều
tra tội ác của chính phủ Hoa Kỳ ở Việt Nam được thành lập 22/7/1966, đã kết hợp tác chặt chẽ với 4 đoàn
nghiên cứu của tòa án Bertrand Russell thu thập tư liệu, bằng chứng sử dụng các
loại vũ khí hóa học, chất cháy của Mỹ để tố cáo những tội ác này trước công luận
thế giới.
[21] Viện sử học
(2014), Lịch sử Việt Nam tập 13, từ năm 1965 đến năm 1975, NXB KHXH, HN, tr 195
[22] Về vấn đề: Giờ nổ
súng quy định chung trên toàn miền Nam là 2 giờ đêm giao thừa, nhưng theo lịch
miền Bắc, Tết Mậu Thân đến sớm hơn một ngày so với lịch miền Nam. Do vậy, có sự
sai lệch trong việc chấp hành ngày N, giờ G theo quy định.
-Lịch miền Bắc, đêm giao thừa tức
đêm 29 rạng sáng ngày 30/1/1968, nên các tỉnh Quy Nhơn, Kon Tum, Pleiku, Đắk Lắk,
Nha Trang, Đà Nẵng tiến hành chiến dịch Mậu Thân theo kế hoạch.
-Theo lịch miền Nam, đêm giao thừa
chính là đêm 30 rạng sáng 31/1/1968, do vật các tỉnh Huế, Quảng Trị, Quảng
Ngãi, Quảng Tín, Bình Thuận, Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn, Cần Thơ, Vĩnh Long
và một số tỉnh miền Trung nổ súng chậm hơn một ngày so với các tỉnh miền Bắc.
-Riêng các tỉnh Kiến Hòa (Bến
Tre), Định Tường (Tiền Giang), Gò Công, Kiên Giang, Vĩnh Bình (Trà Vinh), Bình
Dương, Biên Hòa, Tuyên Đức (Đà Lạt) đến 31/1 rạng sáng 1/2/1968 mới quyết định
nổ súng.
[23] Ba đợt diễn ra
theo thứ tự: Đợt I từ 30/1/1968 đến 25/2/1968; Đợt II trong tháng 5 và tháng 6;
Đợt III trong tháng 8 và tháng 9.
[24] H.Y.Schandler
(1999), Sự nghiệp của một tổng thống bị đổ vỡ Johnson và Việt Nam, người dịch
Nguyễn Mạnh Hà, NXB TP.HCM, tr 131.
[25] William. C.
Westmoreland (1988), Tường trình của một quân nhân, Trích bản dịch của của
Phòng khoa học Quân khu 9, NXB Trẻ, tr 106.
[26] Gabriel Kolko
(2003), Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Việt Nam, Mỹ và kinh nghiệm lịch sử hiện
đại, người dịch Nguyễn Tấn Cưu, NXB QĐND, tr 340.
[27] William. C.
Westmoreland (1988), Tường trình của một quân nhân, Trích bản dịch của của
Phòng khoa học Quân khu 9, NXB Trẻ, tr 107.
[28] Cuối năm 1967, Tổng
thống Johnson và gần như cả nước Hoa Kỳ chú ý về Khe Sanh nơi, mà theo nhiều
người cho rằng đó là một trận Điện Biên Phủ ở miền Nam Việt Nam. Theo một số
tài liệu thì trận Khe Sanh thật sự đã thu hút và kìm chân được 4.500 binh sĩ
tinh nhuệ của đất nước Hoa Kỳ.
[29] Gabriel Kolko
(2003), Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Việt Nam, Mỹ và kinh nghiệm lịch sử hiện
đại, người dịch Nguyễn Tấn Cưu, NXB QĐND, tr 342.
[30] William. C.
Westmoreland (1988), Tường trình của một quân nhân, Trích bản dịch của của
Phòng khoa học Quân khu 9, NXB Trẻ, tr 109.
[31] H.Y.Schandler
(1999), Sự nghiệp của một tổng thống bị đổ vỡ Johnson và Việt Nam, người dịch
Nguyễn Mạnh Hà, NXB TP.HCM, tr 131.
[32] H.Y.Schandler
(1999), Sự nghiệp của một tổng thống bị đổ vỡ Johnson và Việt Nam, người dịch
Nguyễn Mạnh Hà, NXB TP.HCM, tr 131-132.
[33] H.Y.Schandler
(1999), Sự nghiệp của một tổng thống bị đổ vỡ Johnson và Việt Nam, người dịch
Nguyễn Mạnh Hà, NXB TP.HCM, tr 144.
[34] Gabriel Kolko
(2003), Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Việt Nam, Mỹ và kinh nghiệm lịch sử hiện
đại, người dịch Nguyễn Tấn Cưu, NXB QĐND, tr 335.
[35] Gabriel Kolko
(2003), Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Việt Nam, Mỹ và kinh nghiệm lịch sử hiện
đại, người dịch Nguyễn Tấn Cưu, NXB QĐND, tr 334.
[36] Gabriel Kolko
(2003), Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Việt Nam, Mỹ và kinh nghiệm lịch sử hiện
đại, người dịch Nguyễn Tấn Cưu, NXB QĐND, tr 334.
[37] William. C.
Westmoreland (1988), Tường trình của một quân nhân, Trích bản dịch của của
Phòng khoa học Quân khu 9, NXB Trẻ, tr 7.
[38] William. C.
Westmoreland (1988), Tường trình của một quân nhân, Trích bản dịch của của
Phòng khoa học Quân khu 9, NXB Trẻ, tr 116.
[39] Don Oberdoifer
(1988), Tết, dịch Hà Nguyễn, NXB Tổng hợp An Giang, tr 127.
[40] H.Y.Schandler
(1999), Sự nghiệp của một tổng thống bị đổ vỡ Johnson và Việt Nam, người dịch
Nguyễn Mạnh Hà, NXB TP.HCM, tr 149.
[41] William. C.
Westmoreland (1988), Tường trình của một quân nhân, Trích bản dịch của của
Phòng khoa học Quân khu 9, NXB Trẻ, tr 121.
[42] William. C. Westmoreland
(1988), Tường trình của một quân nhân, Trích bản dịch của của Phòng khoa học
Quân khu 9, NXB Trẻ, tr 122.
[43] Gabriel Kolko
(2003), Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Việt Nam, Mỹ và kinh nghiệm lịch sử hiện
đại, người dịch Nguyễn Tấn Cưu, NXB QĐND, tr 345.
[44] Don Oberdoifer
(1988), Tết, dịch Hà Nguyễn, NXB Tổng hợp An Giang, tr 128.
[45] Theo tướng
Westmoreland: Trong các cuộc tấn công
trước thời hạn, các cuộc tấn công chính hoặc các cuộc tấn công thêm sang ngày
thứ ba, có khoảng 84.000 quân địch, chủ yếu là Việt cộng có kết hợp với quân
thay thế của Bắc Việt Nam.
[46] Bộ tư lệnh Quân
khu 7 (2016), Lịch sử quân giải phóng miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976, NXB CTQG, HN, tr171.
[47] Gabriel Kolko
(2003), Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Việt Nam, Mỹ và kinh nghiệm lịch sử hiện
đại, người dịch Nguyễn Tấn Cưu, NXB QĐND, tr 339-340.
[48] William. C.
Westmoreland (1988), Tường trình của một quân nhân, Trích bản dịch của của
Phòng khoa học Quân khu 9, NXB Trẻ, tr 126.
[49] William. C.
Westmoreland (1988), Tường trình của một quân nhân, Trích bản dịch của của
Phòng khoa học Quân khu 9, NXB Trẻ, tr 117.
[50] Gabriel Kolko
(2003), Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Việt Nam, Mỹ và kinh nghiệm lịch sử hiện
đại, người dịch Nguyễn Tấn Cưu, NXB QĐND, tr 332.
[51] H.Y.Schandler
(1999), Sự nghiệp của một tổng thống bị đổ vỡ Johnson và Việt Nam, người dịch
Nguyễn Mạnh Hà, NXB TP.HCM, tr 77
[52] William. C.
Westmoreland (1988), Tường trình của một quân nhân, Trích bản dịch của của
Phòng khoa học Quân khu 9, NXB Trẻ, tr 108.
[53] William. C.
Westmoreland (1988), Tường trình của một quân nhân, Trích bản dịch của của
Phòng khoa học Quân khu 9, NXB Trẻ, tr 121.
[54] Nhiều tác giả,
Truyện và ký về Củ Chi, NXB TP.HCM, 1978, tr 89.
[55] Gabriel Kolko
(2003), Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Việt Nam, Mỹ và kinh nghiệm lịch sử hiện
đại, người dịch Nguyễn Tấn Cưu, NXB QĐND, tr 342.
[56] Don Oberdoifer
(1988), Tết, dịch Hà Nguyễn, NXB Tổng hợp An Giang, tr 136.
[57] Robert S.Mc
Namara (1995), Nhìn lại quá khứ tấm thảm kịch và những bài học về Việt Nam, NXB
CTQG, HN, tr 316 -317.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét