Thứ Hai, 14 tháng 9, 2015

MÔN LỊCH SỬ VÀ VIỆC DẠY HỌC TÍCH HỢP TRONG TƯƠNG LAI


Nguyễn San Hà[1]
Trong Nghị quyết 29-NQ/TW ra ngày 04/11/2013 về việc đổi mới căn bản và toàn diện nền Giáo dục và đào tạo Việt Nam, trong đó đã đề ra quan điểm mới trong nền giáo dục tương lai là: “chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”. Điều đó, có thể thấy rằng nền giáo dục Việt Nam trong tương lai phải là một nền giáo dục thực học và đảm bảo yếu tố kiến thức trong nhà trường phải có sự liên hệ được với thực tiễn cuộc sống.
Nhưng xu thế phát triển của khoa học ngày nay là tiếp tục phân hoá sâu, song song với tích hợp liên môn, liên ngành càng rộng, chính vì thế việc giảng dạy các môn khoa học trong nhà trường phải phản ánh sự phát triển hiện đại của khoa học, không thể giảng dạy các khoa học như là các lĩnh vực tri thức riêng rẽ. Trong đó, thực trạng dạy và học môn lịch sử theo phương pháp cũ trong chương trình hiện hành đã thực sự bộc lộ nhiều hạn chế, khiến cho cả người dạy và người học điều bị động. Đặc biệt, là đối với người học thì thường có cảm giác chán nản, tiết học khô cứng và áp đặt, bài học chỉ toàn chữ và những con số xa lạ, nhưng có đi học là phải học bài nên học sinh chỉ còn cách “học thuộc lòng” để trả bài. Người giáo viên bộ môn này trong những năm gần đây cũng tích cực đổi mới theo các tinh thần chung của Bộ Giáo dục & đào tạo, nhưng chương trình chưa có sự thay đổi mạnh, cách kiểm tra đánh giá theo lối cũ vẫn còn tạo thành rào cản cho mọi hình thức đổi mới trong phương pháp…
Trên tinh thần tiếp thu những quan điểm đổi mới căn bản và toàn diện của Nghị quyết 29 – NQ/TW tại Hội nghị Trung Ương 8 khóa XI, theo tôi môn lịch sử trong tương lai nên mạnh dạng thay đổi về nội dung trình bày để phù hợp với việc triển khai dạy học tích hợp, để tạo nên một bước ngoặt mới, làm thay đổi tư duy học sử và giúp học sinh thuận tiện hơn trong việc lĩnh hội tri thức lịch sử. Muốn làm được công việc trên thì theo tôi, chúng ta cần phải nhận thức sâu sắc một số vấn đề cơ bản sau:
1.Việc biên soạn chương trình chuẩn kiến thức, kỹ năng và sách giáo khoa trong tương lai có thể thiết kế theo định hướng dạy học tích hợp. Bởi vì đây là một hình thức tổ quá trình dạy học phù hợp với xu thế thời đại và thích hợp với việc đổi mới dạy và học sử ở Việt Nam.
Hiện nay theo Tài liệu bồi dưỡng phát triển năng lực nghề nghiệp giáo viên của Bộ giáo dục, thì  dạy học tích hợp (dạy học theo hướng tích hợp) được hiểu là “quá trình dạy học mà ở đó các nội dung, hoạt động dạy kiến thức, kỹ năng, thái độ được tích hợp với nhau trong cùng một nội dung và hoạt động dạy học để hình thành và phát triển năng lực thực hiện hoạt động cho người học; tạo ra mối liên kết giữa các môn học và tri thức, giúp học sinh phát triển tư duy sáng tạo và tính tích cực học tập[2]. Hoặc dạy học tích hợp còn được hiểu là “quá trình dạy học sao cho trong đó toàn bộ các hoạt động học tập góp phần hình thành ở HS những năng lực rõ ràng, có dự tính trước những điều cần thiết cho HS, nhằm phục vu các quá trình học tập tiếp theo và chuẩn bị cho HS bước vào cuộc sống lao động. Mục tiêu cơ bản của tư tưởng sư phạm tích hợp là nâng cao chất lượng giáo dục HS phù hợp với các mục tiêu giáo dục toàn diện của nhà trường[3].
Qua những trình bày trên ta thấy được cần phải mạnh dạng đưa dạy học tích hợp vào nhà trường phổ thông vì:
Thứ nhất, để việc học ở nhà trường vẫn tiếp tục có ý nghĩa đối với học sinh, việc dạy học cần được đổi mới, không chỉ là dạy kiến thức mà cần phải dạy các kĩ năng; không chỉ là học kiến thức khoa học của một môn mà cần dạy trong sự tích hợp với nhiều môn học khác nhau...Bởi vì hiện này đối với nên giáo dục phổ thông ở Việt Nam không có thêm quỷ thời gian và kinh phí, cũng như nhân  sự để có thể đưa thêm nhiều môn khoa học khác vào giảng dạy. Nên có thể thấy rằng: xu thế dạy học tích hợp nhiều môn hay việc tích hợp dạy học với các nội dung giáo dục khác trong nhà trường phổ thông là cần thiết và quan trọng. Điều đó còn góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện của nhà trường phổ thông.
Thứ hai, do bản chất của mối liên hệ giữa các tri thức khoa học. Các nhà khoa học đã cho thấy khoa học chuyển từ phân tích cấu trúc lên tổng hợp hệ thống làm xuất hiện các liên ngành. Vì vậy, xu thế dạy học trong nhà trường phải làm sao cho tri thức của học sinh xác thực và toàn diện. Quá trình dạy học phải làm sao liên kết, tổng hợp hóa các tri thức, đồng thời thay thế “tư duy cơ giới cổ điển” bằng “tư duy hệ thống”. Tránh lối dạy các khái niệm rời rạc để học sinh không rơi vào nguy cơ “suy luận khép kín” và hình thành những con người “mù chức năng”[4]
Thứ ba, dạy học tích hợp còn góp phần giảm tải học tập cho học sinh. Việc giảm tải cho học sinh thông qua việc dạy học tích hợp chính là giúp phát triển các năng lực, đặc biệt là trí tưởng tượng khoa học và năng lực tư duy của học sinh, vì nó luôn tạo ra các tình huống để học sinh vận dụng kiến thức trong các tình huống gần với cuộc sống. Nên nó đã làm giảm sự trùng lặp các nội dung dạy học giữa các môn học, góp phần giảm tải nội dung học tập. Bên cạnh đó, việc tạo ra được sự hứng thú học tập thông qua việc học sinh chủ động giải quyết các tình huống học tập do quá trình dạy học tích hợp mang đến. Việc tích hợp nội dung cần học với các kiến thức có liên quan của các môn khác hay với các nội dung có tính thời sự, thực tế một cách hợp lý sẽ giúp cho các em dễ thấy hiểu, tăng sự kích thích, tạo tâm lý nhẹ nhàng khi học tập cũng có thể xem là một cách làm “hạ nhiệt”, “giảm căng thẳng” việc học tập của học sinh vốn được xem là nặng nền.
2.Đứng từ góc độ là một người tham gia trực tiếp dạy học lịch sử tôi nhận thấy môn học này có nhiều ưu thế và phù hợp để triển khai việc dạy học theo hướng tích hợp.
Thứ nhất, trong quá trình hình thành và vận động của các sự vật, hiện tượng, chân lý…đều tạo nên một lịch sử riêng của mỗi vấn đề, nên có thể thấy rằng môn lịch sử đều có thể tận dụng sự giao thoa này để tích hợp nội dung giảng dạy, bổ sung làm rõ thêm kiến thức của các môn học, các vấn đề cần giáo dục trong nhà trường phổ thông. Ví dụ: lịch sử phát triển của ngành toán học, vật lý học, sinh học, hóa học trong vấn đề các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật của nhân loại; vấn đề lịch sử nguồn gốc loài người gắn với thuyết tiến hóa của Đắc-uyn,....
Thứ hai, thực tế giảng dạy đã cho chúng ta thấy rằng việc học tập những kiến thức mang tính đặc thù của bộ môn khoa học, mà thiếu đi sự dẫn chứng, liên hệ với các lĩnh vực khoa học khác có liên quan sẽ làm cho việc truyền đạt kiến thức của giáo viên cũng như việc lĩnh hội tri thức của học sinh sẽ gặp phải nhiều khó khăn. Ví dụ như dạy bài  “đoàn kết, tương trợ” trong môn giáo dục công dân 7, sẽ thật là khó lĩnh hội kiến thức khi người giáo viên chỉ đưa ra những khái niệm chung chung, thiếu sự liên hệ với lịch sử để chỉ ra cho các em thấy rằng: nhờ đoàn kết trong lịch sử mà nhân dân ta đã tạo ra được một sức mạnh to lớn để vượt qua được mọi khó khăn do kẻ thù mạng lại, và đoàn kết, tương trợ là một tuyền thống quý báu của dân tộc.
Thứ ba, trong phương pháp dạy học tích hợp đã có đưa ra các hình thức tổ chức quá trình dạy học theo các hướng cụ thể, mà chương trình và sách giáo khoa lịch sử trong tương lai có thể vận dụng vận dụng 2 dạng tích hợp cơ bản, mỗi một dạng lại đưa ra 2 cách thức tích hợp được thể hiện như sau:
-Dạng tích hợp thứ nhất: đưa ra những ứng dụng chung cho nhiều môn học. Các thời điểm thực hiện có thể:
+Cách 1: Những ứng dụng chung cho nhiều môn học được thực hiện ở cuối năm học hay cuối cấp học trong một bài học hoặc một bài tập tích hợp. Phù hợp cho việc soạn các bài ôn tập chương, ôn tập các phần lịch sử thế giới và dân tộc, tiết bài tập lịch sử…
+Cách 2: Những ứng dụng chung cho nhiều môn học được thực hiện tương đối đều đặn trong suốt năm học, trong các tình huống thích hợp. Điều này có thể vận dụng để gắn một nội khoa học khác vào một bài lịch sử cụ thể để làm rõ thêm, bổ trợ kiến thức cho những kiến thức cơ bản của bài, trong suốt quá trình học.
-Dạng tích hợp thứ hai: phối hợp các quá trình học tập của nhiều môn học khác nhau. Dạng tích hợp thứ hai thường dẫn đến phải phối hợp quá trình dạy học của các môn học. Ở dạng tích hợp này nhằm hợp nhất hai hay nhiều môn học thành một môn học duy nhất. Điều này đòi hỏi phải nghiên cứu xây dựng chương trình và tài liệu học tập phù hợp, thường phức tạp.
+Cách 1: phối hợp quá trình học tập những môn học khác nhau bằng đề tài tích hợp. Chương trình và sách giáo khoa lịch sử cấp III có thể xây dựng theo các đề tài tích hợp này để giảm tải áp lực môn học tăng thêm độ phong phú cho bài học.
+Cách 2: phối hợp quá trình học tập những môn học khác nhau bằng tình huống tích hợp, theo đó các môn học được tích hợp xung quanh những mục tiêu chung. Cách thức này được xem là phương pháp điển hình của dạy học tích hợp bởi vì: dạng tích hợp này dạy cho HS giải quyết những tình huống phức tạp, vận dụng nhiều môn học. Tích hợp được nhiều kiến thức và kĩ năng của các môn học để đạt được mục tiêu tích cực cho những môn học đó. Ví dụ: khi dạy lịch sử các cuộc chiến tranh thế giới ta có thể vận dụng kiến thức về hệ quả của cuộc chiến tranh để tạo ra một tình huống cho học sinh giải quyết đó là “vấn đề gìn giữ hòa bình thế giới” phải giải quyết như thế nào ?...
3. Nhưng khi thực hiện việc biên soạn chương trình và sách giáo khoa lịch sử  theo hướng tích hợp trong tương lai, cũng như việc ứng dụng biên soạn các bài dạy lịch sử bằng phương pháp dạy học tích cực hiện nay cũng cần phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản trong giáo dục lịch sử như:
-Về mặt sư phạm:
+Không làm thay đổi tính cách đặc trưng của môn học.
+Khai thác nội dung cần tích hợp một cách có chọn lọc, có tính hệ thống, đặc trưng.
+Bảo bảo tính vừa sức.
-Về mặt  chuyên môn:
+Dạy học tích hợp không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn các phương pháp truyền thống của giáo pháp bộ môn, vì thiết nghĩa việc dạy học lịch sử sẽ không còn nguyên giá trị khi thiếu đi những phần tường thuật, phân tích hay xây dựng biểu tượng lịch sử của người giáo viên, đặc biệt là giọng nói, lời giảng truyền cảm xúc của người hướng dẫn các em thực hiện quá trình dạy học hiện đại.
+Dạy học tích hợp nhưng phải đảm bảo học sinh có thể lĩnh hội được sản phẩm cuối cùng của tiết học, khóa học là những tri thức lịch sử cơ bản và trọng tâm. Tri thức đó phải là một sản phẩm đảm bảo yêu cầu bộ môn, mang tính khoa học, tính sư phạm. Tránh việc nhồi nhét kiến thức theo một sự biến tướng thiếu định hướng của giáo viên.
4.Quan những phần trình bày cụ thể trên tác giả muốn thông qua hội thảo, đề xuất một số vấn đề cần thiết làm trong thời gian tới:
Thứ nhất, Bộ giáo dục, các viện nghiên cứu và các cơ quan có liên quan cần phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện nội dung, tài liệu về dạy học tích hợp và nhanh chóng phổ biến đến với giáo viên các cấp để có thể nắm bắt và từng bước thực hiện. Vì theo tác giả các tài liệu trình bày một cách cụ thể về phương pháp dạy học theo hướng tích hợp hiện này còn hạn chế và chưa đáp ứng được yêu cầu.
Thứ hai, việc muốn vận dụng tốt được các phương pháp dạy hiện đại trên thế giới trong đó có dạy học tích hợp cần phải có một sự chuẩn bị chu đáo từ khâu làm chương trình, biên soạn sách giáo khoa, sách hướng dẫn giáo viên, các tài liệu bồi dưỡng cho giáo viên và  các cán bộ quản lý. Tránh để trường hợp người giáo viên hiểu một cách qua loa, đại khái thiếu hụt về mặt lý luận nên không thể linh động trong việc vận dụng vào từng môi trường giáo dục, học sinh khác nhau.
Thứ ba, thiết nghĩ việc đổi mới về phương pháp chỉ thực sự có kết quả khi khâu dạy và học đã hiện đại thì khâu đánh giá kiểm tra chất lượng học tập của học sinh và trình độ của giáo viên cũng cần phải theo xu hướng đổi mới, cần tránh chuyện “bình mới nhưng rượu cũ” trong các lần cải cách ở tương lai. Song song đó, cũng cần phải tạo ra một cơ chế thông thoáng từ cấp quản lý đến người giáo viên để họ có thể toàn tâm toàn ý mà tiếp tục phục vụ và cống hiến cho ngành giáo dục.
THAM LUẬN TẠI HỘI THẢO "DẠY HỌC TÍCH HỢP VÀ DẠY HỌC PHÂN HOÁ Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG - GIẢI PHÁP ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CHƯƠNG TRÌNH VÀ SÁCH GIÁO KHOA PHỔ THÔNG SAU 2015"  vào 5/12/2014 - tại Viện nghiên cứu Giáo dục - ĐH SP TP.HCM
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo dục & Đào tạo, 2013, Tài liệu bồi dưỡng phát triển năng lực nghề nghiệp giáo viên, NXB Giáo dục & NXB ĐHSP, HN.
2.Nguyễn Hữu Châu,2005, Những vấn đề cơ bản về chương trình và quá trình dạy học, NXB Giáo dục, HN.



[1] GV trường THCS Võ Trường Toản – Q1 TP. HCM
[2] Trần Trung, 2013, Xây dựng kế hoạch dạy học theo hướng tích hợp, trích từ Tài liệu bồi dưỡng phát triển năng lực nghề nghiệp giáo viên, NXB Giáo dục & NXB ĐHSP, HN, tr 61.
[3] Trần Trung, 2013, Xây dựng kế hoạch dạy học theo hướng tích hợp, trích từ Tài liệu bồi dưỡng phát triển năng lực nghề nghiệp giáo viên, NXB Giáo dục & NXB ĐHSP, HN, tr 63.
[4] Tức là những người đã lĩnh hội kiến thức nhưng không có khả năng sử dụng các kiến thức đó hàng ngày. 

BẠO LỰC HỌC ĐƯỜNG NGHĨ NHÌN TỪ THỜI GIAN VUI CHƠI CỦA HỌC SINH


Nguyễn San Hà[1]
Trong cuộc sống ngày nay ở các đô thị lớn như TP.Hồ Chí Minh, học sinh phổ thông thường phải dành hết thời gian cho công việc học tập ở trường và ngoài trường. Thời gian còn lại của học sinh phổ thông sau giờ học là rất ít và phải hoàn thành tiếp các công việc sinh hoạt thường nhật, nên các em không có thời gian để vui chơi với bạn bè, sinh hoạt lành mạnh, thường chỉ còn thời gian với phim ảnh và trò chơi điện tử, lên mạng Internet…Nếu nhìn nhận một cách sâu sắc, thì chính một ngày sinh hoạt vô vị như thế của các học sinh phổ thông cũng góp phần không nhỏ vào việc tạo ra tâm lý thích bạo lực hay nhanh chóng trở thành đối tượng của bạo lực học đường. Bài viết này muốn trình bày một số ý kiến của tác giả về tác hại thiếu sự vui chơi lành mạnh đã khiến cho nhiều học sinh trở thành nạn nhân hay chính là người gây nên bạo lực học đường.
1.Trước khi đi vào nội dung chính, tác giả thấy cũng cần thiết phải đề cập đến khái niệm “bạo lực học đường”. Theo nghiên cứu của Th.s Đỗ Thị Nga thì “bạo lực học đường” là những hành vi cố ý, sử dụng vũ lực hoặc quyền lực của học sinh hoặc giáo viên đối với những học sinh, giáo viên hoặc những người khác và ngược lại. Đó có thể là những hành vi bạo lực về thể xác, bạo lực về tinh thần, bạo lực về tình dục, bạo lực ngôn ngữ, những bắt ép về tài chính hoặc những hành vi khác có thể gây ra những tổn thương về mặt tinh thần hoặc thể xác của người bị hại[2], bên cạnh đó, cũng đưa ra một số quan niệm của các học giả phương Tây về thuật ngữ “Bắt nạt học đường” [3] có một số trường hợp xem là đồng nhất với “bạo lực học đường”. Như vậy, dù là “bạo lực học đường” hoặc “bắt nạt học đường” đều cho ta thấy được những hành vi tiêu cực nhằm làm tổn thương đến một đối tượng về nhiều mặt (vật chất, tinh thần, sức khỏe) mà không có sự giới hạn về người gây ra yếu tố bạo lực này (có thể là một hoặc nhiều học sinh). Một điểm cũng vô cùng quan trọng đã được các nhà tâm lý học nghiên cứu và kết luận rằng: một học sinh có thể vừa là nạn nhân, vừa là người gây ra “bạo lực học đường”[4].

2.Thực trạng vui chơi của học sinh ở trường phổ thông là đáng báo động. Bởi vì hiện này, ở tại các đô thị lớn của các nước như TP. Hồ Chí Minh, các bậc phụ huynh thường chọn lựa bằng mọi cách cho con em mình học tập các lớp có bán trú để yên tâm công tác, nên thường từ 7 giờ sáng đến hơn 5 giờ chiều là các em phải tham gia học tập tại trường theo thời khóa biểu chính khóa. Sau thời gian học bán trú, họ lại tiếp tục định hướng hoặc bắt buộc tham gia các lớp học ngoài giờ chính khóa ở khắp nơi và thời gian có thể đến 9 giờ mới kết thúc. Nên có thể thấy rằng, ngoài thời gian học tập ra các em chỉ còn khoảng thời gian vui chơi, giải trí rất ít dao động sau 9 giờ đến tốt đa hơn 11 giờ, mà còn rất nhiều việc phải làm (ăn uống, giải trí, sinh hoạt cùng gia đình, làm bài tập, chuẩn bị bài….)[5]. Một bài báo trên mạng, đã dẫn một câu chuyện điển hình về thời gian học tập sau khi được học chính khóa tại trường của một em học sinh:
Tôi vẫn nhớ như in 2 đoạn hội thoại giữa tôi với 1 học sinh mình kèm và với phụ huynh em đó:
- Em làm bài tập về nhà chưa?
- Dạ chưa.
-  Em chưa làm vì không biết làm hay lười không làm?
- Dạ, em biết làm nhưng em không có thời gian.
- Vậy em ở nhà làm gì mà không có thời gian?
-  Dạ em học buổi sáng trên trường, chiều học tăng tiết ở trường, tối về em học thêm Anh văn và học kèm. Học xong, em còn học bài cho ngày hôm sau nên em không đủ thời gian làm bài tập.[6]
Sau đó người thầy dạy kèm trao đổi với phụ huynh của em thì được trả lời rằng “Biết làm sao được thưa thầy. Học tăng tiết (phụ đạo) ở trường thì không thể giảm được, có nhiều lý do khó nói lắm thầy ơi. Cháu đi học về hay nói lại là không hiểu bài, nên muốn con vững kiến thức nên phải cho học kèm buổi tối. Nhiều khi thấy tội con nhưng cũng không biết làm sao hết.....”[7]. Qua đó cho thấy các em học sinh ngày nay, đặc biệt tại các thành phố lớn gần như không có thời gian giải trí, vui chơi và sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Vì nếu như ngày thường phải đi học lu bù như thế, thì đến thứ 7 và chủ nhật thay vì các em được nghỉ ngơi “lấy lại sức khỏe”. Nhưng ngược lại hoàn toàn, có thể thời gian nghỉ ngơi đó được xếp kín lịch để học bồi dưỡng thêm. Nên chắc chắn rằng việc các em có thể giải trí hay vui chơi chỉ có thể thông qua các phương tiện như: xem truyền hình như phim ảnh, ca nhạc hay lao vào các trò chơi điện tử, facebook...[8]
3.Với một khoảng thời gian vui chơi, giải trí như trên của các em học sinh tại các thành phố lớn sẽ là nguy cơ dẫn đến bạo lực học đường. Theo tác giả nhận định thì với một chuỗi công việc học tập với cường độ cao như trên của học sinh và việc chỉ còn chọn lựa làm bạn với máy tính, trò chơi điện tử, facebook hay phim ảnh trên truyền hình là một nguy cơ khó lường dẫn đến bạo lực học đường vì:
Thứ nhất, việc học tập với một cường độ cao và việc học khi vượt quá thời gian cho phép sẽ tạo cho các em một tâm lý chán nản việc học. Việc tiếp thu kiến thức khi đó chỉ mang tính ép buộc, thiếu khoa học và dễ dẫn đến các căn bệnh về tâm lý nếu được thực hiện liên tục trong một thời gian dài. Từ đó có thể khiến các em trở nên “hung bạo” với người khác; hoặc luôn “co mình” lại với người khác. Tất cả điều đó đều dễ dẫn đến việc: 1) là các em sẽ trở thành kẻ gây bạo lực trong lớp học, ngoài xã hội. 2) là các em dễ trở thành đề tài cho các học sinh khác gây bạo lực về tinh thần (như nói xấu, trêu chọc, bị tẩy chay…) hoặc về sức khỏe (bị đánh, đấm, đá, tát,…). Một giáo viên THCS đã thừa nhận rằng: “Thật khó để những học sinh suốt ngày dán mắt vào màn hình vi tính chơi game có được những kỹ năng sống như các em học sinh thường xuyên chơi những trò chơi dân gian như: đánh cờ, chơi ô ăn quan hay vẽ tranh. Bởi các em không có điều kiện để thể hiện tư duy và cách ứng xử với tình huống thật. Chính vì thế, để hạn chế những tác dụng và hệ lụy của các trò chơi công nghệ, mang lại tính giáo dục sâu sắc đối với học sinh thì các trường học nên cố gắng tổ chức lại các trò chơi dân gian trong nhà trường nhiều hơn nữa. Từ đó sẽ tạo sự sảng khoái cho học sinh và giúp các em hiểu hơn về nét văn hóa của dân tộc”[9]
Thứ hai, chính vì thời gian học tập quá lớn trong ngày đã dẫn đến các em không còn thời gian để tham gia việc vui chơi, giải trí, sinh hoạt cộng đồng mà chỉ còn chỗ dựa vui vẻ bên máy vi tính (các trò chơi điện tử mang tính bạo lực, web đen, facebook…) và xem truyền hình (phim ảnh, ca nhạc mang nội dung bạo lực) và được diễn ra thường xuyên cũng dễ dẫn đến việc các em trở thành đối tượng gây bạo lực hay mang các bệnh về tâm lý khiến cho các bạn xung quanh gây bạo lực với mình (chủ yếu vì lý do nó khác người). Có nhận định cho rằng, hành vi bạo lực được học từ phim ảnh và trò chơi bạo lực cũng dẫn đến “kết quả so sánh giữa mức độ thường xuyên xem phim bạo lực và chơi trò chơi điện tử bạo lực giữa các nhóm học sinh cho thấy, nhóm học sinh gây bạo lực và nhóm học sinh vừa là nạn nhân, vừa là thủ phạm của bạo lực có mực độ xem phim bạo lực và chơi trò chơi điện tử thường xuyên hơn nhóm học sinh không liên quan đến bạo lực và nhóm học sinh là nạn nhân”[10] hay “Khi học sinh thường xuyên xem phim bạo lực và chơi trò chơi điện tử bạo lực, trẻ sẽ tập nhiễm hành vi bạo lực, dần vô cảm với cảm giác của người khác và cảm thấy mạnh mẽ khi làm người khác đau đớn, chính vì vậy mà trẻ càng thể hiện hành vi bạo lực ngoài đời thường”[11]
Thứ ba, một vấn đề cũng cần phải đề cập là nếu các em có khoảng thời gian quá dài ở trường mà môi trường lại không bảo đảm sự an toàn[12] cũng dễ dẫn đến nạn “bạo lực học đường”. Theo TS Đỗ Ngọc Khanh cho biết khi đề cập đến bạo lực do yếu tố “Học tập từ quan sát trong môi trường học tập” thì “gây hấn là kết quả của sự bắt chước các hành vi bạo lực, bởi vì các em tin rằng đó là cách tốt để giải quyết các vấn đề khó khăn của bản thân” và theo tác giả “Nếu bố mẹ, thầy cô giáo tỏ ra hung hãn thì trẻ sẽ mau chóng bắt chước và thấy hành vi đó là bình thường”[13] hay theo Kassen và các cộng sự (2004) trong nghiên cứu của mình đã đưa ra kết luận rằng: “môi trường trường học có môi tương quan có ý nghĩa với mức độ thay đổi hành vi bạo lực, cụ thể là càng ít sự lộn xộn trong trường học và học sinh càng tập trung vào việc học tập thì mức độ bạo lực trong trường học càng giảm. Tương tự như vậy, mức độ nhận được sự quan tâm của người lớn xung quanh đúng mức khi có hiện tượng bạo lực, cũng có tương quan với mức độ bạo lực”[14].
Qua tất cả nội dung trình bày trên, chúng ta thấy được rằng: việc đổi mới giáo dục trong thời gian tới là rất cần và thiết thực cho các thế hệ học sinh, để có một môi trường học tập thân thiện và tích cực hơn. Nhưng bên cạnh, việc định hướng nội dung, chương trình theo hướng hiện đại, gắn khoa học với nhà trường, thì một tiêu chí cũng không kém phần quan trọng là phải dành nhiều thời gian cho học sinh được vui chơi, giải trí và sinh hoạt cộng đồng. Chúng ta sẽ không có được một thế hệ trẻ phát triển và năng động khi hôm này chúng phải học quá nhiều từ sáng cho đến chiều tối. Chúng ta sẽ không có một thế hệ biết linh động và sáng tạo thực sự khi thời gian đi học của chúng chiếm hơn 2/3 thời gian trong ngày và ngoài sách vở chúng chỉ còn làm bạn cùng máy tính và truyền hình với đầy những nội dung bạo lực, nguy hiểm đến nhân loại…Thiết nghĩ vấn đề này, trong tương lai cần phải được các nhà tâm lý học tiếp tục nghiên cứu sâu hơn bằng các phương pháp khoa học chuyên ngành để có thể đưa ra những kết luận sát đáng hơn bài viết hôm nay. Giúp cho Bộ Giáo dục & Đào tạo có những định hướng đúng đắn trong đợt thay đổi chương trình, sách giáo khoa sắp  đến.

THAM LUẬN TẠI HỘI THẢO "Thực trạng và giải pháp ngăn chặn bạo lực học đường ở trường phổ thông" tại Viện nghiên cứu Giáo Dục - ĐH SP.TPHCM, 24/12/2014

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Nguyễn Thị Hoa, Thực trạng tham gia của học sinh trung học phổ thông vào hành vi bạo lực học đường, trích Tạp chí Tâm Lý Học, số 11 – 11/2014, HN.
2.Đỗ Ngọc Khanh, Một số yếu tố chi phối bạo lực học đường nhìn từ góc độ hành vi, trích Tạp chí Tâm Lý Học, số 11 – 11/2014, HN.
3.Đỗ Thị Nga, Bạo lực học đường và hậu quả đối với nạn nhân bị bạo lực học đường, trích Tạp chí Tâm Lý Học, số 11 – 11/2014, HN.
4.Học sinh Việt Nam hầu như không có thời gian chơi và tự học- nguồn http://www.tinmoi.vn/hoc-sinh-vn-hau-nhu-khong-co-thoi-gian-choi-va-tu-hoc-011045225.html
5.Cảnh báo từ khảo sát bất ngờ của một thầy giáo – nguồn
6.Sự thiếu hụt văn hóa dân gian của trẻ em ở đô thị - nguồn




[1] GV – THCS Võ Trường Toản
[2] Đỗ Thị Nga, Bạo lực học đường và hậu quả đối với nạn nhân bị bạo lực học đường, trích Tạp chí Tâm lý học, số 11 – tháng 11/2014, tr 85.
[3] Theo Dan Olweus coi: bắt nạt trong trường học như một “hành vi tiêu cực được lặp đi lặp lại, có ý định xấu của một hoặc nhiều học sinh nhằm trực tiếp chống lại một học sinh, người có khó khăn trong việc tự bảo vệ bản thân”.
Còn theo Milton Keynes (1989) coi: “Bắt nạt là một hành động lặp đi lặp lại một cách hiếu chiến để cố ý làm tổ thương về tinh thần hoặc thể xác cho người khác. Bắt nạt là đặc trưng của một cá nhân hành xử theo một cách nào đó để đạt được quyền lực trên người khác”.
[4]Tại Việt Nam, số liệu được Bộ Giáo dục và đào tạo (GD- ĐT) đưa ra gần đây nhất, trong một năm học, toàn quốc xảy ra gần 1.600 vụ việc học sinh đánh nhau ở trong và ngoài trường học (khoảng 5 vụ/ngày). Cũng theo thống kê của Bộ GD-ĐT, cứ khoảng trên 5.200 học sinh (HS) thì có một vụ đánh nhau; cứ hơn 11.000 HS thì có một em bị buộc thôi học vì đánh nhau; cứ 9 trường thì có một trường có học sinh đánh nhau ... Bạo lực học đường đã trở thành mối quan tâm của rất nhiều gia đình, các nhà trường và là nỗi trăn trở của toàn xã hội bởi hậu quả nghiêm trọng mà nó gây ra.

[5] Theo một nghiên cứu cho biêt, ở tuổi teen ,học (chính khóa, kèm, nhóm, tự học) chiếm tới 10,5 giờ/ngày, kế đến là giải trí (hơn 4 giờ/ngày). Ngày hè, do không học chính khóa nên teen tăng thời gian vui chơi giải trí lên 6 giờ/ngày và ngủ nhiều hơn. http://gamek.vn/game-online/tuoi-teen-do-thi-chi-hoc-tivi-choi-game-va-internet-20140917150201917.chn
[8] Máy vi tính được học sinh dùng để chơi game nhiều hơn là phục vụ việc học (34% so với 30%). Điện thoại di động ngoài việc nghe - gọi cũng được teen sử dụng chủ yếu để chơi game (43%) chứ không phải phục vụ việc học (2%).
[10] Đỗ Ngọc Khanh, Một số yếu tố chi phối bạo lực học đường nhìn từ góc độ hành vi, trích Tạp chí Tâm lý học, số 11 – tháng 11/2014, tr 45.
[11] Đỗ Ngọc Khanh, Một số yếu tố chi phối bạo lực học đường nhìn từ góc độ hành vi, trích Tạp chí Tâm lý học, số 11 – tháng 11/2014, tr 45.
[12] Có thể do cách quản lý học sinh còn chưa nghiêm, hoặc có nhiều đối tượng bất hảo còn theo học trong trường, có sự kỳ thị và phân biệt của giáo viên đối với học sinh,…
[13] Đỗ Ngọc Khanh, Một số yếu tố chi phối bạo lực học đường nhìn từ góc độ hành vi, trích Tạp chí Tâm lý học, số 11 – tháng 11/2014, tr 44.
[14] Dẫn theo Đỗ Ngọc Khanh, Một số yếu tố chi phối bạo lực học đường nhìn từ góc độ hành vi, trích Tạp chí Tâm lý học, số 11 – tháng 11/2014, tr 44.