Chủ Nhật, 13 tháng 10, 2013

THANH NIÊN TIỀN PHONG - SỰ SÁNG TẠO VỀ LỰC LƯỢNG CỦA XỨ ỦY TIỀN PHONG TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM TẠI NAM KỲ


Nguyễn San Hà[1]
 Sau thất bại Nam kỳ khởi nghĩa (23.11.1940), lực lượng cách mạng của Xứ ủy Nam kỳ giai đoạn từ 1939 – 1940 gần như tan rã. Thực dân Pháp ra sức khủng bố và đàn áp những người yêu nước trung kiên, đưa nhiều đồng chí lãnh đạo cao cấp ở Nam kỳ ra pháp trường, dẫn đến các tổ chức và lực lượng cách mạng bị tổn thất nặng nề. Mặc dù vậy, khi Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thành công ở Hà Nội (19.08.1945) và ở Huế (23.08.1945) thì vào tối 24 rạng 25.08.1945, Cách  mạng Tháng Tám cũng lần lượt thành công ở các  tỉnh Nam kỳ. Từ đó, chúng ta mới thấy được sự lãnh đạo tài tình và sáng tạo của Xứ ủy Nam kỳ (cả Tiền Phong và Giải Phóng) đưa lực lượng cách mạng phương Nam vượt qua mọi khó khăn cuối những năm 1940 – 1941, để xây tiến đến giành chính quyền thành công. Và lực lượng Thanh niên Tiền Phong (TNTP) giữ một vai trò không thể thiếu trong việc đưa khởi nghĩa giành chính quyền ở Nam kỳ nói chung và Sài Gòn – Chợ Lớn, Gia Định nói riêng đi đến thành công. Nhận thấy được điều đó, tác  giả mong muốn thông qua bài viết có thể khắc họa lại những chi tiết lịch sử cụ thể cho bạn đọc thấy được sự sáng tạo thành công của Xứ ủy Tiền Phong trong việc  xây dựng và phát triển TNTP trong Cách mạng Tháng  Tám ở Nam kỳ (8.1945).
1.Tình hình khó khăn ở  Nam kỳ sau Nam kỳ khởi nghĩa (23.11.1940)
Sau thất bại khởi nghĩa Nam Kỳ (1940), nhân dân Sài Gòn nói riêng và nhân dân Nam Kỳ nói chung phải gánh chịu cuộc đàn áp dã man của chính quyền “Bảo hộ”. Các cảnh hành hình khủng khiếp nhất đã được thực dân Pháp mang ra thực hiện với những người đấu tranh cho sự độc lập tự do của dân tộc mình. Cuộc khủng bố của chính quyền thực dân đã để  lại nhiều đau thương và mất mát cho nhân dân nơi đây. Theo báo cáo ngày 14.01.1941 của Thống đốc Nam kỳ gửi Toàn quyền Đông Dương, trong vòng hơn 1 tháng (từ ngày 22/11/1940 đến 31/12/1940) ở các tỉnh Gia Định, Mỹ Tho, Cần Thơ, Long Xuyên, thực dân Pháp đã bắt tổng cộng 5.848 người, trong đó Gia Định bắt 903 người; Mỹ Tho bắt 2.901 người; Cần Thơ bắt 1.729 người; Long Xuyên bắt 315 người[2]. Với số lượng người bị bắt như trên đã dẫn đến nhà tù của thực dân ngày càng trở nên chật chội, đời sống cũng như sức khỏe của tù nhân rất kém. Song song đó, chúng cũng tiến hành kết án nhiều người yêu, qua thống kê chưa đầy đủ từ tài liệu lưu trữ, số người bị kết án từ tháng 01 đến tháng 11 năm 1941 lên tới 40.416 người, trong đó, 1.446 người bị kết án tử hình[3]. Pháp và tay sai còn tiến hành thực hiện các hình thức tra tấn, hành hình dã man thời trung cổ như: dùng dây kẽm xỏ xuyên lòng bàn tay hoặc bàn chân của những người tù lại thành từng đoàn rồi dẫn đi, cho phơi nắng và nhốt tù ở các sà lan; hay đưa các tù nhân ra Côn Đảo hoặc đổ xuống biển…
Sau khi các cuộc hành hình của giặc Pháp vừa mới tạm lắng xuống, thì tình hình tại Đông Dương lại có nhiều chuyển biến, do ảnh hưởng của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939 – 1945). Tháng 7.1941, 50.000 quân phát xít Nhật tiến vào phía nam Đông Dương. Do quân Pháp thất bại quân phát xít Đức tại chính quốc (6.1940), nên vào“11 giờ sáng ngày 29/7/1941 tại Visi (Pháp), Đô đốc Đáclan (Darlan), Phó quốc trưởng của chính phủ Pêtanh (Pétain) và Đại sứ Nhật tại Pháp Sôtômatsu Katô (Sotomastukato) đã ký kết văn bảng Phòng thủ chung Đông Dương (Protocole concernant la Défense en commun de l’Indochine Francaise)”[4]. Đến trưa cùng ngày, các đơn vị quân Nhật đã kéo vào Sài Gòn. Kể từ đó, nhân dân ta phải chịu “cảnh một cổ hai tròng”.
Với những sự kiện nổi bật trên, ta  có thể nhận thấy lực lượng cách mạng của Đảng Cộng sản Đông Dương  ở Nam  kỳ đang gặp nhiều khó khăn.
Thứ nhất, sau sự kiện Khởi nghĩa Nam kỳ (11/1940) thì lực lượng cách mạng tại đây  tổn thất  nặng nề. Các  cơ sở Đảng từ cấp Xứ đến  địa phương  gần như  bị địch đánh phá dữ dội. Hàng nghìn cán bộ, Đảng viên bị địch bắt, lớp đưa đi các nhà tù ở khắp Nam kỳ; lớp thì bị kết án  tử hình. Chỉ riêng năm 1941, trong vòng 5 thán đã có 333 người bị đưa ra trường bắn, trong đó có các đồng chí Xứ ủy như: Hà Huy Tập, Võ Văn  Tần; Nguyễn Thị Minh Khai; Nguyễn Hữu Tiến; Nguyễn Văn Tây, Nguyễn Văn  Huân…Cũng sau sự kiện Nam Kỳ, Pháp đã cho xây dựng các trại tập trung (gọi là căng) ở Tà Lài và Bà Rá (đều thuộc tỉnh Biên Hòa) đưa lên đó khoảng chừng 800 tù Cộng sản  không kêu án và cũng không biết ngày ra. Tất cả đã làm tổn hại đến sự chỉ đạo và  lực  lượng cách mạng tại Nam kỳ. Bên cạnh đó, có một số chiến sĩ Cộng sản trốn thoát khỏi sự truy lùng của địch thì phải đành cố giữ mình, ẩn đi về miền Tây đợi bắt liên lạc  với các  đồng chí khác.
Thứ hai, việc tái lập lại cơ sở Đảng bộ tại các địa phương cũng như  là Xứ ủy gặp nhiều khó khăn. Nhiều đồng chí cách mạng sau một thời gian “im hơi lặng tiếng” đã cố gắng ra sức gây dựng lại các tổ chức những sau đó lại bị mật thám của địch tìm cách  đánh phá và bắt các đồng chí lãnh đạo. Cụ thể như trường hợp sau Hội nghị Cần Giuộc – Chợ Lớn (21 đến 22.01.1941) để tái lập Xứ  ủy và tiến hành ra báo Giải Phóng thì chỉ sau khi ra được 3 số thì đồng chí phụ trách bị bắt; rồi tháng 8.1941 thì các đồng chí Xứ ủy bị bắt. Sau đó, với nhiều cố gắng nhưng tờ Giải Phóng vẫn phải lập đi lập lại nhiều lần. Có thể nói rằng, tình hình hoạt động của tổ chức cách mạng trước năm 1943 tại Sài Gòn đầy nguy hiểm và khó khăn bởi: “Cuối năm 1942, do sự bể bạc của  Liên tỉnh ủy miền Đông và các nhóm Đảng ở Sài Gòn, Chợ Lớn – cơ sở binh vận cũng bị xáo trộn tan vỡ, phong trào đấu tranh của binh lính địch nằm im”[5]. Từ đó, công tác  tái lập Xứ  ủy gặp phải khó khăn trong việc  thống nhất  các tổ  chức Đảng riêng lẻ. Nên đến tháng 4/1945, ở Nam kỳ tồn tại hai Xứ ủy Tiền Phong và Xứ ủy Giải Phòng cùng  lãnh đạo cách mạng[6]. Bên cạnh đó, việc bắt được liên lạc với lại Trung ương cũng vô vàn khó khăn, nên các Nghị quyết và Chỉ thị cho tình hình cách mạng mới vào đến trong Nam rất chậm. Buộc các Xứ ủy phải khéo léo, linh động lãnh đạo phong trào quần chúng trong giai đoạn tiền khởi nghĩa.
Thứ ba,  tính từ  sau  khi Nhật vào Đông Dương đến trước khởi  nghĩa giành chính  quyền ở Sài Gòn – Chợ Lớn và Gia  Định, thì tại Nam kỳ tồn tại nhiều  lực lượng  chính trị theo nhiều hướng khác nhau đối lập với  Đảng Cộng sản. Đánh giá về vấn đề này, chính  GS. Trần Văn Giàu (nguyên Bí thư Xứ Ủy Tiền Phong) đã ghi nhận lực lượng cách mạng tại Sài Gòn chỉ: “Non 100đảng viên và 10.000 đoàn viên công đoàn ở thành phố 80 vạn dân như SàiGòn, có thể ví như nắm muối bỏ vào ao nước”[7]. Trong khi đó, Nhật và Pháp đều tạo cơ hội cho các tổ chức thân chúng nổi lên như “nấm gặp mưa rào”. Có thể kể như  các tổ chức: Đảng Phục Quốc (dựa trên tín đồ các giáo phái Cao Đài Tây Ninh của Trần Quang Vinh và Hòa Hảo của Huỳnh Phú Sổ), Đảng Quốc  Gia (dựa trên  tín đồ Tịnh độ cư sĩ), Đảng Quốc gia độc lập (do Nguyễn Văn Sâm và Hồ Văn Ngà đứng đầu), Thanh niên ái quốc  đoàn (của Đinh Khắc Thiệt), Võ sĩ đoàn của Đỗ Như Ánh, Cựu binh sĩ của Lương Văn Tương, bọn tơtrốtky….Sau khi Nhật lật đổ Pháp độc chiếm  Đông Dương (9.3.1945), bọn phát xít còn dựng chính  phủ Trần Trọng Kim để mị dân với giọng điệu “trao trả độc lập cho Việt Nam”. Nhận định về tương quan lực lượng giữa Cộng sản và các thế lực thân phát xít Nhật GS. Trần Văn Giàu đã nói: “so với Mặt trận quốc gia thì tổ chức củahọ là 10 còn tổ chức của ta chỉ được vài ba mà thôi”[8].
Qua những phân tích trên, chúng ta thấy được  rằng sau Nam kỳ khởi nghĩa 11.1940, tình cảnh nhân dân Nam kỳ nói chung và lực lượng cách mạng ở đây nói riêng là gặp nhiều khó khăn và liên tục chịu sự phá hoại của kẻ thù từ nhiều phía. Từ đó, cũng đặt ra cho Xứ  ủy Tiền Phong tại Sài Gòn nhiệm vụ phải làm sao nhau chóng phục hội tổ chức, xây dựng  lực lượng để không phải vắng mặt trong ngày Tổng khởi nghĩa của dân tộc.
2. Sự thành lập Xứ ủy Tiền Phong và  việc giải quyết khó khăn về lực lượng cách mạng
Như trên đã trình bày, sau Khởi nghĩa ở Nam kỳ lực lượng cách mạng tại đây gặp nhiều khó khăn phải giải quyết. Trong đó, việc nhanh chóng tái lập tổ chức và xây dựng lực lượng cách mạng để chuẩn bị cho khởi nghĩa giành chính quyền  là  một việc hệ trọng của  cách mạng nước ta bấy giờ.
Tháng 5.1941, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập  Hội nghị lần thứ 8 của  Trung ương Đảng tại Pắc Bó (Cao Bằng). Hội nghị đã nhận định tình hình chiến tranh thế giới lan rộng  sẽ làm cho các nước đế quốc  suy yếu, Liên xô  sẽ nhất định thắng lợi và phong trào cách mạng thế giới sẽ phát triển nhanh chóng, cách mạng ở nhiều nước xã thành công và  một loạt nước xã hội chủ nghĩa xã ra đời. Tại Hội nghị đã đề ra những nội dung chủ yếu như:
1.Trọng tâm của cách mạng nước ta là giải phóng dân tộc, nên vẫn tiếp tục tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất và nêu thêm khẩu hiệu giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công tiến tới người cày  có ruộng.
2.Theo sáng kiến của  Nguyễn Ái  Quốc, Hội nghị tiến hành thành lập mặt trận Việt Nam độc lập Đồng Minh (gọi tắt là Việt Minh – 19.5.1941) nhằm tập hợp các đoàn thể quần chúng yêu nước vào mặt trận.
3.Hội nghị cũng đề ra việc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, và tùy vào  hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương có thể tiến hành khởi nghĩa vũ trang từng phần. 
Hội nghị Trung ương lần thứ 8 đánh dấu sự hoàn chỉnh về chiến lược cũng như  sách lược của Đảng về  cách mạng Việt Nam, chuẩn bị chờ thời cơ đến. Tuy nhiên do những khó khăn đặc biệt, nên ở Nam kỳ không tiếp cận được với tại liệu và thông tin cụ thể về Hội nghị này. Do đó, các đảng viên phải tùy cơ ứng biến để khắc phục những khó khăn đặt ra. Trong đó, việc thành lập Xứ ủy Tiền Phong là một minh chứng.
20/3/1941, các đồng chí Dương Quang  Đông, Trần Văn Giàu, Trần Văn Kiệt, Trương Văn Nhâm, Tô Ký, Nguyễn Tấn Đức, Nguyễn Công Trung, Châu Văn Giác, vượt ngục Tà Lài thành công về gây dựng lại cơ sở ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Tân An, Mỹ Tho, Gò Công, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Trà Vinh, Cần Thơ. Do nhiều đồng chí hoạt động không đồng quan điểm  với nhau nên đồng chí Trần Văn Giàu và Nguyễn Văn Trân  lui về U Minh hoạt động, tích cực gây dựng cơ  sở và mở rộng địa bàn. Về sau liên lạc được  với các đồng chí Nguyễn Oanh, Nguyễn Văn Lượng hoạt động ở nội thành Sài Gòn và xúc  tiến việc xây dựng lại Thành ủy Sài Gòn – Chợ Lớn. Đến cuối 1944, đồng chí Giàu về hoạt động tại Phú Lạc (Chợ  Lớn), tích  cực  liên  lạc với một số đảng  viên hoạt động ở nội thành Sài Gòn để chuẩn bị cho việc xây dựng  lại Xứ ủy Nam Kỳ theo quan điểm và chủ trương mới.
Từ 13 đến 15/10/1943, tại nhà ông Hương trưởng Trần Vinh Hoài ở xã Tân Thuận Bình, huyện Chợ  Gạo (Tỉnh Mỹ Tho), 11  đảng viên dự  họp gồm: Dương Quang Đông, Nguyễn Oanh, Châu Văn Giác, Nguyễn Văn Trân và một số đồng chí đại diện cho Tỉnh ủy lâm thời, Ban cán sự Đảng các tỉnh Tân An, Mỹ Tho, Gò Công, Bến Tre, Vĩnh Long. Hội nghị bàn bạc và nhất  trí thành lập Xứ ủy Nam Kỳ mới gồm 7 đồng chí[9]. Dù không có mặt trong buổi họp, song Hội nghị đã thống nhất  bầu đồng chí  Trần Văn  Giàu làm Bí thư Xứ ủy, như tạm thời do đồng chí Dương Quang Đông phụ trách (4/1945, đồng chí Giàu mới chính thức nhận chức Bí thư) và cơ  quan ngôn luận là tờ báo Tiền Phong. Do không liên lạc được với Trung ương ngoài Bắc nên Xứ ủy Tiền Phong không biết Nguyễn Ái Quốc đã về nước và triệu tập Hội nghị Trung ương  lần thứ 8 (1941). Bí thư Trần Văn Giàu kể: “Không đành chịu ngồi chờ, bất đắt dĩ  bọn tôi phải tự vạch ra một  đường lối cách  mạng[10].
Xứ ủy Tiền Phong chủ trương dựa vào đường lối Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 của Đảng, lấy mục tiêu giải phóng dân  tộc làm nhiệm vụ hàng đầu, lấy việc tập hợp quần chúng các giới các  ngành, kể cả thành thị và nông thôn làm cơ  sở để hành động cách  mạng. Nên khi quan sát tình hình thực tế sau Nhật đảo chính  Pháp, Xứ ủy Tiền Phong đã chủ trương lợi dụng phát xít Nhật để tập hợp lực lượng cho cuộc tổng khởi nghĩa sắp tới, góp phần làm phân hóa kẻ thù ở Nam Kỳ. Điều đó, cho thấy quan điểm của Xứ ủy cũng phù hợp với tình hình cụ thể ở Nam kỳ, dù công tác liên lạc giữa Nam kỳ với Trung ương giai đoạn này còn nhiều khó khăn (ở trong Nam vẫn chưa nhận được bản Chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của ta 12.3.1945), cho thấy được  sự  nhạy bén nắm bắt tình hình và chủ động chờ đợi thời cơ  đến để miền Nam không thể  thiếu mặt trong ngày Tổng  khởi nghĩa giành chính  quyền về cho nhân dân. GS. Giàu khi ấy đã cho rằng: Nhật là kẻ thù số một vì: 1. Hiện tại chỉ có Nhật mới  thật sự làm chủ Đông Dương sau 9.3.1945; 2. Riêng tại Nam kỳ thì  lực lượng thân Nhật trong các đảng phái và tôn giáo khá đông; 3. Pháp đô hộ ta gần  trăm  năm nên ai cũng thấy được  sự xấu xa của nó, nhưng phát xít Nhật  và các lực lượng thân Nhật thì  đang lừa bịp nhân dân với chiêu bài “Đại Đông Á”; “Đồng chủng đồng văn” và tiến đến “trao trả độc lập” giả tạo; 4. Ở Nam kỳ ngoài số  bọn Pháp phản động (phe Decoux), còn những người Pháp  tiến bộ, chống phát xít mà ta có thể liên minh với điều kiện họ cũng muốn Đông Dương độc  lập.
Xứ ủy Tiền Phong ngày càng phát  triển về các  tỉnh thành như: Sài Gòn, Chợ Lớn, Tân An, Mỹ Tho, Gò Công, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc  Trăng, Long Xuyên, Châu Đốc, Sa Đéc, Rạch Giá, Bến  Tre, Bạc Liêu, Bà Rịa, Vĩnh Long. Để tăng cường lãnh đạo hệ  thống Tỉnh ủy ở 19 tỉnh, thành, Xứ ủy đã bổ xung thêm các đồng chí Hà Huy Giáp, Nguyễn Văn Kỉnh, Ung Văn Khiêm, Nguyễn Văn  Tạo, Nguyễn Văn Nguyễn, Bùi Công Trừng, Nguyễn Văn  Tây, Nguyễn Văn Trấn, Dương Bạch Mai, Lý Chính Thắng, Đào Duy Kỳ, Nguyễn Văn Hoành, Dương Khuy, Nguyễn Thành A…[11]
Đầu 1945, Xứ ủy Tiền Phong đã cử đồng chí Lý Chính Thắng  ra Bắc xin ý  kiến của Trung ương về tình hình Đảng bộ Nam Kỳ. Trung ương Đảng cũng đã cử đồng chí  Nguyễn Thị Kỳ vào Nam nắm bắt tình hình để tăng cường sự chỉ đạo thống  nhất cách  mạng Nam Kỳ. Nhờ đó mà Xứ ủy Tiền Phong  đã nắm bắt được chỉ thị của Trung ương và kịp thời họp để kiểm điểm tình hình, đề ra 3 yêu cầu cụ thể:
- Nam kỳ phải khởi nghĩa kịp thời với  tổng khởi nghĩa ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ.
- Khởi nghĩa ở Nam kỳ phải bắt đầu từ Sài Gòn (Sài Gòn có về tay  cách mạng thì cách mạng ở phương  Nam mới gọi là thành công).
- Cuộc khởi nghĩa ở Sài Gòn và toàn Nam Kỳ nổ ra bằng phong trào đấu tranh của nhân dân với  hình thức bạo lực chính trị là chủ yếu, có kết hợp chừng mực nào đó với bạo lực  vũ trang.[12]
Như vậy Xứ ủy Tiền Phong đã nhận định cần chuẩn bị lực lượng cách mạng hùng mạnh bao gồm đông đảo quần chúng nhân dân (đặc biệt tại Sài Gòn – Chợ Lớn và Gia Định) để khi tương quan lực lượng thay đổi có lợi cho cách mạng trong vài tháng tới thì chớp thờ cơ giành chính quyền.
3. Thanh niên Tiền Phong – sự sáng tạo về lực lượng của  Xứ ủy Nam kỳ.
Như  ở phần trên đã trình bày, chúng ta thấy chỉ trong vòng hơn một năm (từ khi thành lập Xứ ủy đến trước Nhật đảo chính Pháp 3.9.1945), Xứ ủy Tiền Phong đã khắc phục được những khó khăn từ sau Khởi  nghĩa Nam  kỳ để lại như:
Thứ  nhất, Khôi phục lại được tổ chức Đảng ở các cấp, vạch ra được đường lối lãnh đạo cho phù hợp với tình hình cách  mạng Nam kỳ. Đặc biệt Xứ ủy Tiền Phong đã kế thừa được kinh nghiệm hoạt động đấu tranh ở  các đô thị lớn như Sài Gòn – Chợ Lớn và Gia Định để chuẩn bị lực lượng  tiền khởi nghĩa.
Thứ hai, tổ chức công đoàn cũng được phục hồi lại sau những khó khăn giặc địch khủng bố. tháng 4.1944, 20 đại biểu công đoàn họp tại hãng thuốc lá MIC lập ra ra  Tổng công đoàn Nam  kỳ và bầu ban chấp hành. Từ đó, lực  lượng công đoàn  ở Nam kỳ liên tục phát triển: “từ vài chục công đoàn cơ sở với 15.000  đoàn viên hồi cuối 3. 1945, đến tháng 8.1945 đã tăng lên đến 324 công đoàn cơ sở với 120.000 đoàn viên”[13].
Thứ ba, Xứ ủy Tiền Phong đã tập hợp được một lực lượng  đông đảo gồm  trí  thức, sinh viên, nhà công thương vào một tổ chức  như  Tân dân chủ đoàn, Hội truyền bá Quốc ngữ (thành lập 18.8.1944), nhóm Thanh Niên…
Thứ tư, dưới sự  chỉ đạo của Xứ ủy Tiền Phong, tờ báo  Tiền Phong được xuất bản với nhiều bài  viết  của tác giả Trần Văn  Giàu (lấy bút danh là Xuyên Vân Nhạn) trình bày những quan điểm và chủ trương  cách mạng ở Nam kỳ, vạch trần sự lừa bịp của bọn phát xít Nhật và thực dân Pháp. Bên cạnh đó, Xứ ủy còn mở nhiều lớp huấn luyện chính trị cho đông đảo trí thức sinh viên ngoài Đảng, giảng viên là chính Bí thứ  Giàu người về sau được  mệnh danh là “thầy giáo đỏ”.
Đến cuối 1944 – đầu 1945, nhiều sự kiện trong nước và trên thế giới làm cho quan hệ Pháp  - Nhật ở Đông Dương ngày càng xấu đi. Sau khi Pháp giành lại được  độc lập cho chính mình (25.8.1945), chính  phủ lưu vong De Gaulle từ Alger (Algérie) về  lại Pháp và tuyên bố “giải phóng Đông Dương”. Nhưng thật chất là tái chiếm lại Đông Dương làm  thuộc địa (vốn đã được Hội nghị Yalta thiết lập 1941). Kế đến  là 25.2.1945, Mỹ đã chiếm lại Manila (thủ đô Philippines). Thấy được nguy cơ lực lượng Pháp làm tay sai  cho Nhật trước đây có thể sẽ chuyển hướng bắt tay với Mỹ để bội phản Nhật. Nên quân Nhật ở Đông Dương quyết định làm cuộc  đảo  chính Pháp  vào ngày  9.3.1945 để dễ bề hành xử.
Tình hình đã được Trung ương Đảng ngoài Bắc nắm bắt và ra  chỉ thị  Nhật Pháp bắn nhau và hành động của ta 12.3.1945. Do vẫn chưa bắt được liên lạc với  Trung ương nên Xứ ủy  phải tự  vạch ra đường đi cho cách mạng Nam bộ. Nhận thấy được sau cuộc Nhật đảo  chính Pháp về thực chất ở Nam kỳ nói riêng và toàn cõi Đông Dương nói chung chỉ là sự thay đổi bọn cai trị. Chính phủ Trần Trọng Kim cũng chỉ là một chiêu bài được Nhật dùng để lợi dụng những trí thức dân tộc những không có thái độ quyết liệt trong đấu tranh giành độc lập. Nên Xứ ủy Tiền Phong vẫn xác định: tiếp tục chống Nhật và tay sai của Nhật.  Kế đến GS.Giàu khi ấy đã thấy được  lực lượng Đồng Minh thế nào cũng sẽ chiến thắng Nhật và rất cần thiết phải xây dựng một lực lượng đủ mạnh để giành chính quyền  khi Nhật đầu hàng, kịp thời lập vào khoảng trống chính quyền khi ấy.  Nên ông nhận định: “Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân; riêng lực lượng của Đảng không làm nổi cách mạn; phải có sự tham gia, sự nổi dậy của hàng triệu đồng bào”[14]. Và vấn đề làm sao để có lực lượng đủ mạnh ? và sau đó Nhật vô tình đã trả lời cho ta.
Trước việc liên tiếp thất bại, Nhật muốn tập hợp lực lượng để chống lại Đồng Minh, nên Iđa đã đến gặp bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, nhờ ông đứng ra tập hợp thanh niên Nam Kỳ, dĩ nhiên để lợi dụng là chính. Chớp lấy thời cơ đó, Xứ ủy (Tiền Phong) đã chấp nhận cho Bác sĩ Ngọc Thạch giúp Nhật lập tổ chức Thanh niên, để ta có thêm cơ hội hoạt động công khai và lôi kéo quần chúng về phía cách mạng, vì bác sĩ Ngọc Thạch là ân nhân của Iđa và người Nhật không nghĩ được rằng ông đã gia nhập Đảng Cộng sản  Đông Dương (trong khi được  nhiều đặt ân từ công việc, có vợ  đầm). Thực hiện chủ  trương của Xứ ủy, Phạm Ngọc Thạch cùng luật sư Thái Văn  Lung, bác  sĩ Nguyễn Văn Thủ, sinh viên Huỳnh Văn Tiểng đã thành lập tổ chức  thanh niên , lấy tên là Thanh niên Tiền Phong (đó là cái tên mà Xứ ủy lựa chọn và gợi ý).
Quá trình chuẩn bị cho việc thành lập tổ  chức Thanh niên Tiền Phong  rất khẩn trương. Vì nó là một tổ  chức hợp pháp do chính phủ Nhật tài trợ thông qua Sở Thể dục – Thể thao Nam kỳ. Người Nhật  định hướng cho nó  hoạt động về chính trị nhiều hơn là Hướng đạo, có cờ riêng là (cờ vàng sao đỏ)[15], được treo băng rôn ngang đường nội dung “giải phóng dân tộc” và hô hào công khai “Cải tổ lại xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân”[16]. Bài ca Lên Đàng của Lưu Hữu Phước được chọn làm Đoàn ca; trang phục là quần soọc xanh hay màu sậm, áo sơ mi trắng cộc tay, dép cao su quai tréo, mũ bành vành rộng; trụ sở đóng tại Nhà số  14 Charner (nay là Nguyễn Huệ)  và có Trung tâm huấn luyện: Cơ sở của Jeunes Campeurs ở đường Pellerin (nay là Pasteur). Hội đồng Quản trị do Đảng đoàn làm nòng cốt gồm nhiều trí thức nhân sĩ yêu nước: Dược sĩ Trần Kim Quan, Kỹ sư Kha Vạng Cân, Bác sĩ Hồ Văn Nhựt, Họa sĩ Hồ Văn Lái, Giáo sư Lê Văn Huấn, Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát…Trong đó, Bác sĩ Phạm Ngọc  Thạch làm Chủ tịch Hội đồng quản trị; Tráng trưởng phụ trách Thanh niên là Huỳnh Văn Tiểng;  Tráng trưởng phụ trách  Thể thao là Bác sĩ  Nguyễn Văn  Thủ.
Tổ  chức này thành lập dựa trên kinh nghiệm của công tác Hướng đạo sinh. Hoạt động TNTP do các  ban chuyên môn phụ trách như: Ban Tuyên truyền cổ động tổ chức; Ban Hoạt động  xã hội; Ban Phát thanh; Ban Biên tập báo Tiến[17]; Ban Huấn luyện quân sự; Ban Văn nghệ. Phong trào đã nhanh chóng tổ chức các hoạt động  cứu trợ nạn nhân chiến tranh do các cuộc oanh tạc của  Đồng minh và cứu nạn đói ở miền Bắc. Dần dần về sau, phong  trào TNTP có đối tượng bao gồm sự tham gia rộng rãi   của nhân dân, không phân biệt chính trị, dân tộc, tôn giáo. TNTP cũng đã tiến hành tổ chức Đại hội lần thứ nhất vào 1.7.19.45 ở Sài Gòn. 5.7.1954 làm lễ tuyên thệ tại vườn Ông Thượng (nay là Công viên văn hóa Tao Đàn) với 30.000 đoàn viên tham dự. Lễ tuyên thệ lần thứ hai tổ chứ  vào ngày 19.8.1945, cũng tại vườn Ông Thượng với 50.00 đoàn viên tham dự. Tất cả các buổi tuyên thệ, lực lượng TNTP đã thể hiện được sự lớn mạnh của lực lượng mình. Dù về chính trị vẫn còn mơ hồ, nhưng: “Thanh niên Tiền  Phong thực sự trở thành một mặt trận dân tộc thống nhất lôi cuốn hầu hết các tầng lớp nhân dân, các tôn giáo vào một cao trào cách mạng toàn dân”[18]. Bên cạnh  họ, còn có cả các tổ chức Phụ nữ Tiền Phong, Phụ lão Tiền Phong, Thiếu niên Tiền Phong.
Một vấn đề cũng cần phải nhấn mạnh là đầu năm 1945, Tổng công đoàn Nam kỳ vẫn còn hoạt động bí mật, số đoàn viên chưa đông. Sau khi Thanh niên Tiền phong ra đời, Xứ ủy cho Tổng công đoàn mang tên Tiền Phong – Ban xí nghiệp, mượn danh nghĩa tổ chức thành viên Than niên Tiền Phong để hoạt động công khai hợp pháp, nhưng vẫn giữ nguyên hệ thống tổ chức của mình. Dẫn đến lực lượng cách mạng ngày càng được bổ xung và so với các thế lực thân Nhật thì lực lượng Cộng sản chiếm ưu  thế. Theo một thống kê của Viện sử học cho biết, riêng ở Sài Gòn, lực lượng của hai tổ chức Thanh niên Tiền Phong và Công đoàn đã chiếm 200.000 người, trong khi dân số của Sài Gòn cũng chỉ 800.000 dân[19]
Khoảng giữa tháng 4.1945, Lý Chiến Thắng cùng Cái Thị Tám (tức Nguyễn Thị Kỳ - giao liên của Trung ương Đảng) về tới Sài Gòn, mang theo tài liệu và thư của Trung ương gửi Xứ ủy. Đây là lần đầu tiên Xứ ủy Tiền Phong biết được nội dung Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5.1941) và Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (12.3.1945). Lập tức Xứ ủy thành lập Mặt trận Việt Minh Nam bộ. Tối 19.8.1945, tại rạp Nguyễn Văn Hảo (rạp Công Nhân ngày nay)Việt Minh tổ chức mít tinh trình bày chương trình hành động, quy tụ mấy vạn người tham dự. Đến 20.8, tại Sài Gòn, Mặt trận Việt Minh Nam bộ tuyên bố ra hoạt động công khai, thì ngày 22.8 TNTP chính thức tuyên bố gia nhập Việt Minh và trở thành một thành viên của Ủy ban Khởi nghĩa Nam bộ. Kể từ đây, đường lối chính trị của TNTP đã được  hoàn chỉnh và không còn phải giấu dưới lớp một tổ chức hoạt động trong khuôn khổ cho phép của chính phủ phát xít Nhật. Ngay sau khi gia nhập Mặt trận, lãnh đạo TNTP đã lập ra các đội “Thanh niên Tiền Phong xung kích” để đi đầu trong khởi nghĩa giành chình quyền; Thanh niên Tiền Phong – Ban xí nghiệp (thuộc Tổng Công hội) cũng lấy lại tên Tổng công đoàn Nam bộ (cũng là thành viên của  Việt Minh). Bên cạnh đó, từng bước Mặt trận Việt Minh Nam bộ cũng đã kêu gọi được  các tổ chức, đảng phái, tôn giáo có tinh thần mong muốn Việt Nam độc lập gia nhập Mặt trận để cùng  tiền hành đánh đuổi phát xít Nhật và bọn tay sai trước khi quân Đông minh vào giải giáp Nhật ở Đông Dương. Và sau khi khởi nghĩa ở Tân An thành công vào ngày 23.8.1945, lập tức lệnh khởi nghĩa ở Sài Gòn – Chợ Lớn và Gia Định đã chính thức được phát động  vào tối 24 rạng sáng 25.8.1945. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi ở Sài Gòn – Chợ Lớn  bằng một cuôc tuần hành mít tinh huy động đồng bào từ các vùng ngoại thành và các tỉnh lân cận lên về tham gia lên đến con số 1.200.000 người.
Từ những thông tin về tổ chức TNTP, chúng ta có thể đưa ra một số nhận định sau:
Thứ nhất, rõ ràng sự hình thành và phát triển TNTP trong cách mạng Tháng Tám ở Nam kỳ là dựa trên sự sáng tạo tài tình của Xứ ủy Tiền Phong. Sau thời gian phục hồi lại được các  tổ chức Đảng hơn một năm, Xứ ủy vẫn cảm thấy rằng lực lượng cách  mạng ở Nam kỳ còn yếu và non so với các tổ chức chính trị, đảng phái thân phát xít Nhật và bọn cơ hội chủ nghĩa. Song bằng sự chỉ đạo tài tình và đặc biệt là kịp lúc nắm bắt cơ hội khi chính phủ phát xít muốn lập một tổ chức nhằm tập hợp thanh niên ở trong Nam để cứu vãn những thất bại không thể chối cải của quân Nhật trên các chiến trường Trung Quốc, Triều Tiên và có lẻ để chuẩn bị đối phó khi  quân Đông minh vào Đông Dương. Xứ ủy đã nắm được tổ chức đó ngay từ khi thành lập và hoàn toàn không cho Nhật can dự được vấn đề nào (như ban lãnh quản trị, chọn cơ, nội dung huấn luyện,…). Nên đã có nhận định rằng: “Tổ chức Thanh niên Tiền phong, được Nhật cho phép thành lập, được Đảng khéo léo biến thành một trong những công cụ huy động quần chúng lợi hại của Đảng”[20]. Điều đó về sau này, khi có điều kiện đối chiếu chúng ta thấy nó cũng tương đồng với quan điểm của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp “khi phong trào chính trị của nhân dân chưa lên mạnh, nền thống trị của địch còn ổn định, việc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang càng phải lấy công tác vận động chính trị trong quần chúng làm chính”[21].
Thứ hai, TNTP là một mặt trận huy động lực lượng cách  mạng trong suốt giai đoạn chuẩn bị tiến đến khởi nghĩa giành chính quyền ở Nam kỳ. Điều đó  đã được làm rõ, vì gọi là TNTP nhưng tổ chức này không kén thành phần tham gia và đã chập nhận hầu hết các lực lượng, không phân biệt về giai cấp, về tôn giáo, thành phần xã hội miễn là yêu nước, quyết tâm chống phát xít thực dân. Cũng chính nhờ Mặt trận TNTP này, mà nhiều hoạt động của Xứ ủy được triển khai thuận lợi như: như việc thiết lập TNTP – Ban xí nghiệp (vốn là Tổng Công Hội); ra báo chí để tuyên truyền vạch trần đường lối mị dân của kẻ thù và thông báo thời cơ đã đến gần với dân tộc; mở các lớp huấn luyện các lực lượng phi Cộng sản nhưng có lòng yêu nước và định hình con đường cách mạng cho họ…
Thứ ba, chính việc lực lượng TNTP ngày càng lớn mạnh đã giúp cho Cách mạng tháng Tám ở Nam kỳ có những đặc điểm  khác nhiều so với ở  ngoài Bắc và Trung kỳ. Với việc “chỉ trong vòng 3 tháng, do Đảng lãnh đạo và các tổ chức quần chúng của Đảng vừa giúp, Thanh niên Tiền Phong phát triển rất mau, số đoàn viên lên đến 1.200.000 trong 21tỉnh thành Nam bộ, riêng Sài Gòn có hơn 200.000”[22]. Đã tạo nên điều kiện cho người của Xứ ủy cài vào trong nội bộ các cơ quan, xí nghiệp, tổ chức chính quyền của địch. Lực lượng cách mạng to lớn ấy chỉ còn đợi thời cơ chính mùi là lập tức tiến lấy chính quyền mà không phải tốn kém nhiều thời gian và xương máu (dù quân đội Nhật ở Nam kỳ sau 9.3.1945 khá đông và còn nguyên vẹn sau khi chính phủ Nhật đầu hàng Đồng Minh). Nên GS. Trần Văn Giàu đã nhận xét: “Ở Sài Gòn không có cảnh tiến chiếm các công sở của chính quyền cũ như ngoài Bắc (như cảnh chiếm Bắc bộ phủ ở Hà Nội); ngược lại toàn bộ công tư sở ở Sài Gòn đã được lực lượng cách mạng hay thân cáchmạng… chiếm ngay từ bên trong”[23][10,5;6].
Chính sự thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám ở Nam kỳ mà tiêu biểu là tại Sài Gòn – Chợ Lớn và Gia Định đã chứng minh thật hùng hồn cho sự sáng tạo và linh động trong việc vạch ra đường lối cách mạng của  Xứ ủy Tiền Phong. Kết quả của sự sáng tạo trong xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng chính là TNTP một tổ chức công khai hợp pháp nhưng lại mang lại thành công to lớn. Từ đó cũng góp thêm vào bài học công tác tổ chức Đảng trong chiến tranh là: “không phải chỉ có  hoạt động bất hợp pháp, bí mật mới là cách mạng, còn hoạt động công khai, hợp pháp là cải lương”[24].
Trong không khí cả nước phấn khởi chuẩn bị kỷ niệm 86 năm ngày Cách  mạng Tháng Tám thành công (1945 - 2013). Nhắc lại về cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Nam bộ đặc biệt là tại Sài Gòn – Chợ Lớn và Gia Định là một điều vô cùng ý nghĩa. Vì chính nhờ sự chỉ đạo tài tình của Xứ ủy Tiền Phong với thế mạnh là lực lượng TNTP đã giúp cho Sài Gòn nói riêng và Nam kỳ nói chung không phải  vắng mặt  trong một ngày hội lớn, quyết định vận mệnh của  non sông. Dù hiện tại vẫn tồn tại nhiều nghi kỵ về tổ  chức Xứ ủy Tiền Phong và TNTP song những đánh giá và bài học rút ra đó, không thể phủ nhận được sự thành công, sáng tạo và linh động trong lãnh đạo cách mạng ở Nam kỳ trong tình cảnh đường liên lạc với Trung ương bị cắt đứt. Ngược lại, chúng ta còn học được một bài học quý giá về việc phải linh động  và triển khai những tư tưởng sáng tạo phù hợp với hoàn cảnh của từng thời kỳ, từng địa phương trong việc thực hiện các đường lối chủ trương của Đảng  trong thời kỳ Hội nhập và phát triển. 


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Phạm Ngọc Bích (chủ biên), 2008, Cách  mạng tháng tám 1945 ở Sài Gòn – Chợ Lớn và Gia  Định, NXB Tổng hợp TP.HCM.
2.Nguyễn Thị Thùy Dung, (2009), “Cách mạng Tháng Tám – kết quả của 15 năm chuẩn bị trực tiếp của toàn Đảng, toàn dân ta”, trích Những khía cạnh lịch sử - văn hóa Việt Nam và Thế giới, NXB Chính trị Quốc gia, HN.
3.Trần Bạch  Đằng, (2005), “Cách mạng Tháng Tám ở Nam bộ và Nam bộ kháng chiến năm mươi năm nhìn lại”, trích Cách mạng Tháng Tám một sự kiện vĩ đại của thế kỷ XX, NXB Chính trị Quốc gia, HN.
4. Phạm Thị Huệ, (2013), Phong trào Dân tộc dân chủ ở Nam kỳ 1930 – 1945 nghiên cứu qua tài liệu lưu trữ, NXB CTQG, HN.
5. Trần Văn Giàu, (2005), “Mấy đặc điểm của Cách mạng Tháng Tám ở Sài Gòn”, trích Sài Gòn mùa thu 1945, NXB CAND.
6. Trần Văn  Giàu (1995), Hồi ký 1940 – 1945 (bản đánh máy), TP.Hồ Chí Minh.
7. Trần Văn Giàu, (2005), Sài Gòn mùa thu 1945, NXB CAND.
8. Trần Văn Giàu (chủ biên), (1987), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, NXB TP. HCM,
9. Võ Nguyên Giáp, (1975), Chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước, NXB Quân đội nhân dân, HN.
10. Nhiều tác giả (2010), Kỷ yếu Hội thảo Cách mạng Tháng Tám ở Nam bộ, NXB ĐH SP TP.HCM
11. Dương Trung Quốc, (2005), Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919 – 1945), NXB Giáo dục, HN.
12. Huỳnh Văn Tiểng – Bùi Đức  Tịnh (1985), Thanh niên Tiền Phong và các phong trào học sinh sinh viên, trí thức Sài Gòn  1939 – 1945, NXB Trẻ.
13. Viện Sử học (2000), Cách mạng Tháng Tám 1945 – Những sự kiện lịch sử, NXB KHXH, HN



[1]GV Trường THCS Võ Trường Toản – Q1 TP.HCM.
[2]Phạm Thị Huệ, (2013), Phong trào Dân tộc dân chủ ở Nam kỳ 1930 – 1945 nghiên cứu qua tài liệu lưu trữ, NXB CTQG, HN, tr 190.
[3]Phạm Thị Huệ, (2013), Phong trào Dân tộc dân chủ ở Nam kỳ 1930 – 1945 nghiên cứu qua tài liệu lưu trữ, NXB CTQG, HN, tr 192.
[4] Dương Trung Quốc, (2005), Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919 – 1945), NXB Giáo dục, HN, tr335
[5]Triệu Vũ – Hoàng Văn Lễ, Vai trò của  Xứ ủy Giải Phóng và Xứ ủy Tiền Phong trong Cách  mạng Tháng Tám  ở Nam bộ, trích kỷ yếu Hội thảo Cách mạng Tháng Tám ở Nam bộ, NXB ĐH SP TP.HCM, tr197.
[6]Cả hai Xứ ủy cũng từng gặp nhau tại các Hội nghị và các tháng 4,5 và 6.1945 để bàn việc thống nhất tổ chức và lãnh đạo nhưng điều không thành công.
[7]Trần Văn Giàu, (2005), “Mấy đặc điểm của Cách mạng Tháng Tám ở Sài Gòn”, trích Sài Gòn mùa thu 1945, NXB CAND, tr 29-30.
[8]Trần Văn Giàu, (2005), “Mấy đặc điểm của Cách mạng Tháng Tám ở Sài Gòn”, sđd, tr 32.
[9]7 đồng chí gồm: Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Trân, Nguyễn Oanh, Dương  Khuy, Dương Quang Đông, Nguyễn Tấn Đức,  Nguyễn Côn.
[10]Trần Văn  Giàu (1995), Hồi ký 1940 – 1945 (bản đánh máy), TP.Hồ Chí Minh, tr 67.
[11]Phạm Ngọc Bích (chủ biên), 2008, Cách  mạng tháng tám 1945 ở Sài Gòn – Chợ Lớn và Gia  Định, NXB Tổng hợp TP.HCM, tr54.
[12]Phạm Ngọc Bích (chủ biên), sđd, tr55.
[13]Viện Sử học (2000), Cách mạng Tháng Tám 1945 – Những sự kiện lịch sử, NXB KHXH, HN, tr 386.
[14]Trần Văn  Giàu (1995), Hồi ký 1940 – 1945 (bản đánh máy), TP.Hồ Chí Minh, tr 123.
[15]Vốn xuất phát từ việc đổ ngược  cờ Việt Minh lại để cho tiện khi khởi nghĩa giành chính  quyền thì lật lại mà địch thì không phát hiện được.
[16]Phạm Ngọc Bích (chủ biên), sđd, tr 87.
[17]Chủ bút  Mai Văn Bộ, thư ký tòa  soạn Quách Vũ (Quách Vĩnh Chương).
[18]Huỳnh Văn Tiểng – Bùi Đức  Tịnh (1985), Thanh niên Tiền Phong và các phong trào học sinh sinh viên, trí thức Sài Gòn  1939 – 1945, NXB Trẻ, tr 25.
[19]Viện Sử học, sđd, tr 387.
[20]Trần Bạch  Đằng, (2005), “Cách mạng Tháng Tám ở Nam bộ và Nam bộ kháng chiến năm mươi năm nhìn lại”, trích Cách mạng Tháng Tám một sự kiện vĩ đại của thế kỷ XX, NXB Chính trị Quốc gia, HN, tr 381.
[21]Võ Nguyên Giáp, (1975), Chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước, NXB Quân đội nhân dân, HN, tr25.
[22]Trần Văn Giàu (chủ biên), (1987), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, NXB TP. HCM, tr 340.
[23]Trần Văn Giàu, (2005), Sài Gòn mùa thu 1945, NXB CAND, tr 5 – 6.
[24]Nguyễn Thị Thùy Dung, (2009), “Cách mạng Tháng Tám – kết quả của 15 năm chuẩn bị trực tiếp của toàn Đảng, toàn dân ta”, trích Những khía cạnh lịch sử - văn hóa Việt Nam và Thế giới, NXB Chính trị Quốc gia, HN, tr 226.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét