CẢI
CÁCH GIÁO DỤC THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA Ở HÀN QUỐC VÀ MỘT VÀI KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI
VIỆT NAM
Nguyễn San Hà*
Hoàng Phương Lan**
I.ĐẶT
VẤN ĐỀ
Vào thập niên 50 của thế kỷ trước, Hàn Quốc “là một vùng đất nghèo với thu nhập bình quân đầu người khoảng 90
USD/năm, di chứng chiến tranh rất nặng nề, đó là sự tiêu điều, thiếu thốn và lạm
phát về kinh tế như những căn bện cố hữu hủy hoại sức sống đất nước”[1].
Vậy mà chỉ sau 3 thập niên tiến hành công nghiệp hóa, Hàn Quốc đã trở thành một
nước công nghiệp mới (NIC) và sau đó trở thành nước công nghiệp phát triển,
thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD). Đấy là một kỳ tích
đáng để các nước đang phát triển tham khảo, vận dụng và khi phân tích các
nguyên nhân dẫn đến sự phát triển vượt bậc nói trên của Hàn Quốc, nhiều nhà
nghiên cứu cho rằng vai trò của giáo dục có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, “ là một trong những nguyên nhân cơ bản làm
nên “Kỳ tích Sông Hàn”, khiến cho cả thế giới khâm phục” [2],
đặc biệt là các cuộc cải cách giáo dục nhằm đáp ứng các yêu cầu phát triển khác
nhau của quốc gia qua từng thời kỳ.
Trong khuôn khổ của một tham luận, thông qua việc làm rõ vai trò của các
cuộc cải cách giáo dục Hàn Quốc trong quá trình công nghiệp hóa, các tác giả
mong muốn rút ra một vài kinh nghiệm thiết
thực, hữu ích đối với Việt Nam trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
II.
NỘI DUNG
1.
Vai trò của các
cuộc cải cách giáo dục đối với quá trình công nghiệp hóa ở Hàn Quốc
1.1. Các cuộc cải cách giáo dục của
Hàn Quốc từ khi lập quốc (1948) đến đầu thế kỷ XXI
Từ khi Chính phủ Hàn Quốc thành lập (1948) đã
quan tâm và không ngừng thực hiện cải cách, đổi mới giáo dục một cách sâu rộng.
Phương hướng cải cách được dựa trên nguyên tắc dân chủ tự do được khẳng định
trong Hiến pháp và Hiến chương giáo dục quốc gia (1949) cho đến nay. Cải cách
giáo dục tại Hàn Quốc trong thời kỳ công nghiệp hóa đã trải qua 4 giai đoạn
chính như:
Từ
năm 1949 đến năm 1960 được xem là giai đoạn đặt nền móng cho nền giáo dục Hàn
Quốc: hệ thống trường 6-3-3-4 được thiết lập và hình thành nền giáo dục bắt buộc;
thanh toán nạn mù chữ; thiết kế hệ thống tự trị trong giáo dục; triển khai xây
dựng nhiều cơ sở giáo dục, đào tạo giáo viên….Trong giai đoạn này dù có những hạn
chế nhưng bước đầu đã tạo được một nền móng vững chắc cho nền giáo dục.
Từ
thập niên 1960 và 1970 là giai đoạn nền giáo dục phát triển về số lượng và từng
bước nâng cao chất lượng, phục vụ trực tiếp cho nền giáo dục: điểm nhấn trong
giai đoạn này là việc Chính phủ đã tạo điều kiện cho hệ thống giáo dục chuyên
nghiệp, kỹ thuật cao phát triển để đáp ứng được đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp
hóa Hàn Quốc. Bên cạnh đó, việc nước này bỏ thi tuyển lên trung học đã làm cho
tính cạnh tranh ở các trường đại học tăng lên, hủy bỏ khoảng cách về chất lượng…
Trong
thập niên 1980 chính là lúc nền giáo dục Hàn Quốc được nâng cao chất lượng, nhằm
phục vụ cho tiến trình công nghiệp hóa dựa vào các ngành công nghiệp kỹ thuật
cao của đất nước. Đây chính là giai đoạn Ủy ban cải cách giáo dục trực thuộc Tổng
thống Hàn Quốc được thành lập (3/1985) và nhiều đề nghị cải cách sau đó được Ủy
ban này đề trình lên Chính phủ.
Từ
thập niên 1990 trở đi nền giáo dục Hàn Quốc đã bước vào giai đoạn tiên tiến với
nội dung “hướng đến mục tiêu hướng nội và
phúc lợi giáo dục nhằm đáp ứng kỷ nguyên công nghệ cao và Chiến lược gia nhập
hàng ngũ các nước tư bản phát triển nhất của Hàn Quốc”[3].
Trong giai đoạn này, các chính phủ đều tập trung đầu tư nghiên cứu và phát triển; chính sách hỗ trợ và phát triển nguồn
nhân lực cũng có nhiều thay đổi mang tính khích lệ cao.
Nhờ
những cố gắng không ngừng trong việc cách cách giáo dục tại Hàn Quốc với điểm nổi
bật là đáp ứng được những yêu cầu trong thời kỳ công nghiệp hóa đất nước. Nên
vào tháng 10/1996, Hàn Quốc đã chính thức trở thành thành viên của OECD.
1.2.
Vai trò của các cuộc cải cách giáo dục đối với quá trình công nghiệp hóa
Nhà nghiên cứu Hoàng Văn Hiển khi
phân tích về vai trò “lực đẩy” của giáo dục Hàn Quốc đối với quá trình phát triển
kinh tế - xã hội đất nước đã có một nhận định tổng quát rằng “Hàn Quốc đã xây đựng được một hệ thống giáo
dục - đào tạo hoàn thiện, đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước cũng như quá trình quốc tế hóa, toàn cầu hóa trên nhiều lĩnh vực đời sống
xã hội của quốc gia - dân tộc”[4].
Từ nhận định này, chúng tôi cho rằng vai trò của các cuộc cải cách giáo dục của
Hàn Quốc chính là nhằm đáp ứng một cách đầy đủ và cấp thiết nhất các nhiệm vụ,
mục tiêu của giáo dục đề ra trong quá trình phát triển của Hàn Quốc qua từng thời
kỳ phát triển, có thể khái quát như sau:
Thứ
nhất, góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho quốc gia - dân tộc, bao gồm:
- Các nhà chính trị có đầy đủ tài
năng và phẩm chất chính trị để thực hiện vai trò hoạch định, lựa chọn các chiến
lược phát triển quốc gia. Có thể thấy một số tổng thống Hàn Quốc là đại diện
tiêu biểu cho lực lượng này, như Tổng thống Park Chung Hee (1963 - 1979) - người
có vai trò rất lớn trong việc đưa Hàn Quốc cất cánh kinh tế lần thứ nhất và trở
thành một NIC; Tổng thống Kim Dae Jung ( 1998 - 2003) - người có công trạng rất
lớn trong việc đưa Hàn Quốc nhanh chóng vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính -
tiền tệ và kinh tế 1997 - 1998 và thực hiện chính sách hòa hợp dân tộc tiến tới
thống nhất đất nước giữa hai miền bán đảo Triều Tiên…
- Đội ngũ chuyên gia cao cấp góp phần
quan trọng trong việc hoạch định chiến lược phát triển quốc gia, điển hình là bộ
tham mưu trong khu “Nhà Xanh” của tổng thống Hàn Quốc, trong đó có nhiều người
được đào tạo từ các nước tiên tiến. Không phải ngẫu nhiên mà người Trung Quốc
khi tiến hành cải cách mở cửa đã tham khảo kinh nghiệm giáo dục Hàn Quốc và cho
rằng “Kinh tế Hàn Quốc cất cánh được là
do dựa vào hơn một trăm nhà trí thức cao cấp”[5].
Tiêu biểu là Thủ tướng Nam Duk Woo (thời Park Chung Hee) là một tiến sĩ đào tạo
tại Mỹ…
- Đội ngũ lao động có trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, tay nghề và kỹ năng cao đáp ứng đầy đủ các yêu cầu ngày càng cao của quá trình công nghiệp hóa, hội nhập
quốc tế và mở cửa. Trong tác phẩm “Tìm
hiểu cải cách giáo dục ở Hàn Quốc”, các tác giả đã cho rằng giáo dục ở nước
này đã giúp ích cho sự phát triển của đất nước đặc biệt “là góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế phát triển thông qua việc đào
tạo nguồn nhân lực có kỹ năng, đáp ứng được những đòi hỏi của quá trình công
nghiệp hóa Hàn Quốc”[6].
Như vậy, việc tìm hiểu những kinh nghiệm trong tiến trình tiến hành cải cách
giáo dục ở Hàn Quốc thời kỳ công nghiệp hóa thật sự có một ý nghĩa lớn đối với
Việt Nam
hiện tại.
Thứ
hai, góp phần nâng cao trình độ dân trí và phát triển văn hóa, xã hội.
Khi dân trí phát triển, vai trò của
nhân dân càng được phát huy bởi ngoài việc cung cấp nguồn nhân lực, nhân dân
còn là lực lượng đông đảo ủng hộ các đường lối, chính sách phát triển của Nhà
nước; đồng thời cũng là áp lực để buộc các Chính phủ Hàn Quốc phải thay đổi các
chính sách đã trở nên bất cập, cản trở sự phát triển xã hội[7].
Thứ
ba, thông qua việc đẩy mạnh khoa học
- kỹ thuật và công nghệ, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu phát triển (R&D),
giáo dục đã góp phần xây dựng cơ cấu kinh tế, cơ cấu công nghiệp có chiều sâu,
gắn liền lý thuyết với thực tiễn sản xuất kinh doanh.
Thực tiễn phát triển kinh tế, xã hội
Hàn Quốc đã chứng minh được vai trò to lớn của khoa học và công nghệ trong thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiên tiến,
tăng sức cạnh tranh của các tập đoàn kinh doanh (Chaebol) cũng như sản phẩm
hàng hóa của Hàn Quốc, nâng cao đời sống vật chất của nhân dân và góp phần tich
cực vào việc bảo vệ môi trường sinh thái của quốc gia này.
2.Những kinh
nghiệm cải cách giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hóa ở Hàn Quốc đối với Việt
Nam
2.1. Xây dựng thành công một nền giáo
dục mở
Chính phủ và nhân dân Hàn Quốc rất quan tâm
đến giáo dục, vì họ cho rằng “giáo dục gắn
liền với cứu nước, là một quyết sách của phát triển”[8].
Nên ngay từ rất sớm nước này đã đẩy mạnh phát triển giáo dục, cải cách giáo dục
theo hướng mở và từng bước hoàn thiện. Sau này, trong các bản đề nghị cải cách
của Ủy ban cải cách giáo dục trực thuộc Tổng thống Hàn Quốc (PCER) có nêu rõ: “Hệ thống giáo dục mở là một hệ thống giáo dục
mở rộng cửa đối với mọi người, vượt qua những hạn chế về thời gian và địa điểm,
có mục tiêu cuối cùng là kiến tạo “một nền giáo dục hoàn hảo” (nhà nước phúc lợi
giáo dục) để bảo đảm sự tự hoàn thiện của mỗi công dân…”[9].
Và suốt quá trình tiến hành cải cách giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hóa,
các Chính phủ Hàn Quốc đã xây dựng “nền
giáo dục mở” thành công ở các nội dung sau:
Thứ nhất, phát triển nhanh về số lượng người học và từng bước hướng đến
bảo đảm bình đẳng trong giáo dục cho mọi thành phần: trong khoảng
35 năm (1965 - 2000) hầu hết trẻ em ở tuổi đến trường đều đi học. Có khoảng 50%
học sinh trung học cơ sở được vào học phổ thông trung học. Và có tới 70 % học
sinh trung học phổ thông được vào học ở các trường đại học và cao đẳng hay dạy
nghề[10].
Để có được những con số trên, giáo dục Hàn Quốc đã tiến hành miễn học phí tiểu
học (1956) đến những năm 60 thì sách giáo khoa được cấp miễn phí cho cấp học
này. Đối với phổ thông cơ sở thì tiến hành bỏ hình thức thi tuyển sang xét tuyển
(từ năm học 1968 – 1969). Tính bình đằng của giáo dục Hàn Quốc còn thể hiện cụ
thể ở việc “đặt sự ưu tiên vào việc lựa chọn bằng cách thi tài chứ không phải bằng
sự giàu có của gia đình người học”[11].
Tiêu biểu đến 1981, đã tiến hành kết hợp xét thành tích học tập ở phổ thông
(chiếm 40%) với kết quả kỳ thi trên toàn quốc để quyết định học sinh vào được Đại
học...
Bên cạnh đó, Chính phủ còn mở rộng loại
hình giáo dục đặc biệt cho các em khuyết tật. Năm 1969, Hàn Quốc mới chỉ có 28
trường thì đến năm 1992 số trường này lên tới 103 với tổng số học sinh 20.646 học
sinh[12].
Tại các cơ sở này, các em được dạy những kỹ năng để cho trẻ khuyết tật có thể
làm những việc có ích. Hay việc thiết lập một kênh truyền hình và phát thanh
chuyên biệt dành cho các chương trình giáo dục và ngày càng nhiều loại trường học
để cho mọi thành phần đều có thể học tập.
Thứ hai, đảm bảo mọi công dân có điều kiện học tập suốt đời: Trong Hiến
pháp và Hiến chương giáo dục quốc gia của nước này có nêu: “Nhà nước bảo đảm
phát triển giáo dục suốt đời”. Một hệ thống giáo dục phi chính quy đã được xây
dựng và phát triển với hai loại: “Một là,
chương trình dạy liên tục cho thanh niên và người lớn tuổi, những đối tượng đã
không được hưởng quyền lợi của chế độ chính quy. Hai là, các khóa học bồi dưỡng
hay kỹ thuật ngắn hạn dành cho những đối tượng đang đi làm hoặc không phải sinh
viên”[13].
Bên cạnh đó, còn có các khóa đào tạo khác nhau do tư nhân và chính phủ tổ chức…
Thứ ba, Nền giáo dục mở phải gắn liền với việc tăng cường tính “tự trị”. Cuộc cải cách
giáo ở Hàn Quốc đã tăng cường quyền tự trị giáo dục cho các cơ quan giáo dục địa
phương, các đơn vị trường họ. Vấn đề này được đề cập từ 1987, nhưng mãi đến
3/1991 Luật Tự trị giáo dục địa phương mới được công bố. Điều đó, giúp “tạo ra tính trung lập trong chính trị, nâng
cao tính chuyên môn, tính tự chủ trong giáo dục để xây dựng một nền giáo dục
thích hợp với điều kiện của từng địa phương”[14].
Theo đó, cơ quan giáo dục trung ương chỉ đề xuất phương hướng, tiêu chuẩn và kế
hoạch tổng quát về sau chỉ đóng vai trò hỗ trợ thực hiện.
Lưu ý rằng, chính nhờ đặc điểm này mà việc
“xã hội hóa giáo dục” ở Hàn Quốc được tiến hành khá thành công tiêu biểu như:
1994, GNP của nước này là 289.500 tỷ Won, nhưng ngân sách dành cho giáo dục chỉ
có 11.053 tỷ Won (chiếm khoảng 3,8%); trong khi cha mẹ học sinh chi khoảng
17.464 tỷ Won (chiếm khoảng 6,03%)[15].
Cho đến nay, nét nổi bật này vẫn được duy trì và bổ sung trong các bản Đề nghị
cải cách sau này vì: “cải cách đối với nền
giáo dục địa phương có tính tự chủ cần phải được định hình để cực đại hóa nguồn
trí tuệ và khả năng học tập của tất cả cư dân”[16].
Thứ tư, nền “giáo dục mở” ở Hàn Quốc còn được thể hiện ở việc tăng cường
hợp tác quốc tế về giáo dục. Từ lâu Chính phủ nước này đã xem: “Hợp tác quốc tế về giáo dục là một trong những
nội dung, lĩnh vực quan trọng của Hàn Quốc trong quan hệ hợp tác quốc tế”[17]
và nhanh chóng phát triển trong các thập niên 1980, 1990 với nhiều nội dung. Bằng
việc trao đổi hợp tác theo các thỏa thuận
song phương với các nước hay tổ chức quốc tế (như UNESCO, UNICEF…) để đưa các
sinh viên đi du học ở nước ngoài để có thể học tập những tri thức tiên tiến rồi
về phục vụ cho đất nước. Đồng thời, Chính phủ cũng tiến hành hỗ trợ các nhà
khoa học nước ngoài, công trình khoa học tìm hiểu và nghiên cứu về đất nước Hàn
Quốc hay trao đổi học thuật hai chiều: “1992,
có 1989 sinh viên và 413 giáo sư, học giả nước ngoài học và làm việc ở Hàn Quốc”[18]
hay đến thập niên 1990, nước này đã trao đổi các thỏa thuận văn hóa và giáo dục
với 58 nước…Điều đó, có ý nghĩa lớn đến việc phát triển cũng như giới thiệu đất
nước và con người Hàn Quốc cho thế giới.
Như vậy chính nhờ tạo ra được một nền “giáo
dục mở” với những đặt tính: tạo điều kiện bình đẳng cho mọi người học tập và học
tập suốt đời hay việc tăng cường tính giáo dục địa phương và đẩy mạnh hợp tác
giáo dục quốc tế, đã giúp đặt nền tản cho một xã hội dân trí, đáp ứng được những
đòi hỏi của thời đại đặt ra.
2.2.Cải cách
giáo dục phải gắn liền với chiến lượt phát triển nguồn nhân lực
Từ đầu thập niên 60, Hàn Quốc vẫn là một
nước thặng dư về nguồn lao động. Nhưng ngay sau đó, Chính phủ nước này đã nhận
thấy: vai trò to lớn của việc phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao là
không thể thiếu, cũng như chỉ có việc cải cách giáo dục mới đảm bảo được đòi hỏi
của xã hội về nhân lực. Nên một trong những điều chỉnh quan trọng ở thời kỳ này
là: “phát triển nhanh hệ thống giáo dục
chuyên nghiệp, đào tạo lực lượng công nhân kỹ thuật, cán bộ quản lý đáp ứng việc
mở rộng cơ cấu công nghiệp và phát triển nhanh các ngành phục vụ xuất khẩu”[19].
Để đảm bảo được sự gắn liền giữa cải cách giáo dục với chiến lượt phát triển
nguồn nhân lực, Chính phủ Hàn Quốc đã tiến hành các công việc như sau:
Thứ nhất, xây dựng và nâng cao chất lượng hệ thống đào tạo nghề đã được
Chính phủ chú trọng thực hiện. Để đảm bảo giáo dục nghề có chất lượng
trong thập niên 1960, “hầu hết các loại
hình giáo dục và đào tạo nghề và kỹ thuật chính quy đều nằm trong hệ thống giáo
dục nhà nước, và đều được hệ thống hóa và chuẩn mực hóa”[20]:
Nhà nước đã cho ra đời Luật Đào tạo nghề (1967) và một số viện đào tạo nghề được
thành lập. Đến những năm 1970, Hàn Quốc đẩy mạnh giáo dục dạy nghề và kỹ thuật ở
bậc phổ thông cơ sở và phổ thông trung học; tăng thêm một số viện đào tạo nghề
công và ủy quyền đào tạo nghề tại nhà máy cho hầu hết các danh nghiệp tư nhân
(ban đầu áp dụng với các doanh nghiệp có hơn 500 công nhân; năm 1991, con số định
mức này xuống 150 công nhân và 1995 xuống còn 100 công nhân trong khu vực sản
xuất)[21].
Điều đó, giúp giảm nhẹ gánh nặng cho Nhà nước và đảm bảo được sự nâng cao tay
nghề kỹ thuật cho nhiều công nhân. Chính phủ cũng “yêu cầu các trường học cần phải tổ chức các khóa học theo hướng giúp học sinh nhận thức
các nghề nghiệp khác nhau và phát triển
khả năng học tập suốt đời sau khi tốt nghiệp”[22]
và tiến hành song song “Chính sách phúc lợi sản xuất” nhằm tạo điều kiện cho những người không may mắn
(có thu nhập thấp, khuyết tật, thanh niên không việc làm…) học nghề để nuôi sống
mình.
Thứ hai, tăng cường hàm lượng khoa học và kỹ thuật công nghệ trong giáo
dục.
Khi tiến hành cuộc cải cách giáo dục, Hàn Quốc đã có nhiều cố gắng trong việc
phát triển tiềm năng khoa học của học sinh. Ở đại học thì: “một mặt tuyển chọn học sinh trong nước và đẩy mạnh bồi dưỡng ở nước ngoài. Mặt khác có
chính sách trọng đãi, thu hút nhân tài (lưu học sinh, kiều bào)”[23].
Trong đó, Chính phủ đã thực hiện rất tích cực
việc thu hút các nhà khoa học Hàn Quốc và nước ngoài về sinh sống và làm
việc trong nước với mức lương cao (khoảng 900.000 won/ tháng) dẫn đến “thập niên 1990, về cơ bản Hàn Quốc chấm
dứt hiện tượng “chảy máu chất xám” trong đó Viện KIST đóng vai trò quan trọng”[24].
Bên cạnh, để đảm bảo hàm lượng khoa học
trong giáo dục, Chính phủ cũng đẩy mạnh việc thành lập và nghiên cứu khoa học hỗ
trợ cho ngành giáo dục. Ngay trong giai đoạn “cất cánh” lần thứ nhất, nhiều Viện
khoa học đã được thành lập để hỗ trợ cho công cuộc cải cách như: Viện Quốc gia
về đánh giá giáo dục; Viện Phát triển giáo dục Hàn Quốc; Viện nghiên cứu khoa học
ứng xử ; Hệ thống phổ biến giáo dục Hàn Quốc và các viện nghiên cứu giáo dục
khoa học hàm lâm, nghiên cứu giáo dục của tỉnh và thành phố… “Tính đến 1991, ở Hàn Quốc đã có 2.352 viện
nghiên cứu và phát triển của nhà nước và tư nhân”[25].
Đối với giáo dục chuyên nghiệp và kỹ thuật thì đến 1973, Chính phủ đã thực
hiện “Hệ thống kiểm tra trình độ kỹ thuật quốc gia” để “cải tiến chất lượng đội ngũ lao động lành
nghề và nâng cao địa vị kinh tế - xã hội cho những công nhân kỹ thuật có tay
nghề cao”[26].
Những chính sách trên đã cho thấy Chính phủ
Hàn Quốc đã tiến hành thành công cải cách
giáo dục gắn với việc phát triển nguồn nhân lực, giúp tạo ra một nguồn
lao động dồi dào cho đất nước trong giai đoạn công nghiệp hóa. Tinh thần đó vẫn
được tiếp tục thực hiện sau đó: vào tháng 1/2001, Bộ Giáo dục cũ được đổi tên
thành Bộ Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực, “với chức năng giám sát và phối hợp tất cả các chính sách chủ yếu liên
quan đến phát triển và sử dụng nguồn nhân lực như đào tạo nghề và hòa đồng xã hội…”[27]
thể hiện một sự đề cao việc giáo dục phải gắn với phát triển nguồn nhân lực quốc
gia.
2.3.Cải cách
giáo dục phải đảm bảo và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc
Chúng ta thấy rằng, việc cải cách giáo dục ở
bất cứ nơi nào cũng cần phải học tập một mô hình giáo dục hiện đại ở quốc gia
khác, song không có nghĩa là xóa hoàn toàn cái cũ hay chấp vá giữa các cũ và
cái mới. Cuộc cải cách giáo dục ở Hàn Quốc diễn ra trong thời ký công nghiệp
hóa đã “biết tận dụng những ưu điểm của
các yếu tố văn hóa truyền thống, biến nó thành một trong những nhân tố góp phần
thúc đẩy xã hội phát triển”[28].
Tức là họ đã dung hòa được các truyền thống mang tính lề lối với các yếu tố văn
minh của thế giới. Để làm được điều đó Chính phủ nước này đã chủ trương:
Thứ nhất, việc cải cách giáo dục nhưng phải bảo đảm yếu tố truyền thống dân tộc đã được các đời Chính phủ
khẳng định bằng các văn kiện quan trọng. 12/1968, Chính phủ Park Chung Hee đã
công bố đạo luật giáo dục mới (có tính kế thừa và phát triển đạo luật năm 1949)
với giá trị cơ bản của nó là: “nhấn mạnh
đến việc xây dựng một nền tảng tinh thần cho sự kế tục dân tộc, cũng như các
giá trị nhân văn, đạo đức của xã hội. Sáng tạo thần tượng mới về dân tộc Hàn Quốc
trên tinh thần thống nhất và hòa hợp dân tộc”[29].
Đến năm 1987, trong bản công bố Hiến pháp và Hiến chương giáo dục quốc gia
(cũng tiếp tục kế thừa và phát triển hai đạo luật 1949 và 1968) cũng với tinh
thần: “không ngoài mục đích nâng cao chất
lượng giáo dục – đào tạo và bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời góp phần vào sự
sáng tạo và phát triển văn minh nhân loại.”[30].
Tất cả đã cho thấy quyết tâm của chính phủ Hàn Quốc đối với việc cải cách giáo dục không hướng
ngoại mù quáng.
Thứ hai, Các tư tưởng truyền thống
của Nho giáo được phát triển phù hợp với cuộc sống hiện đại như: tinh thần
“trung quân ái quốc” ngày xưa qua giáo dục
đã dần dần chuyển hóa thành tinh thần tin tưởng vào chính phủ, không ngừng cố gắng
vươn lên trong xã hội để góp phần xây dựng đất nước; hay kế thừa và phát huy tư
tưởng gia tộc, trật tự gia trưởng, chữ hiếu đã đặt cơ sở cho chủ nghĩa tư bản
kiểu gia tộc tạo ra những nhà kinh doanh có tính kỷ luật cao, giữ chữ tín và
làm việc một cách cần cù rất cần trong xã hội công nghiệp.
Như vậy, việc cải cách giáo dục nhưng phải
trên cơ sở bảo tồn và phát huy truyền thống dân tộc là một điểm đặc sắc trong sự
thành công của cải cách giáo dục Hàn Quốc dưới thời kỳ công nghiệp hóa. Trong
các cuộc cải cách sau đó, việc phải bảo đảm và phát huy truyền thống Hàn Quốc
đã tiếp tục được đề cập hoàn thiện hơn để: “nhấn
mạnh giáo dục tái thống nhất đất nước nhằm chuẩn bị cho học sinh, sinh viên có
kiến thức và thái độ cần thiết để sống trong một đất nước dân chủ thống nhất…để
sống hài hòa với các bạn Bắc Hàn của họ”[31].
Điểm này cho Chính phủ Hàn Quốc rất sâu sắc trong việc giáo dục truyền thống gắn
với giáo dục ý thức tái thống nhất.
III.KẾT
LUẬN
Hàn
Quốc đã thực hiện công nghiệp hóa đất nước song song với cuộc cải cách giáo dục
tiến bộ trước Việt Nam
30 năm. Song phải nhìn nhận rằng, Việt Nam khi tiến hành công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng trong bối cảnh và yêu cầu bức thiết như
Hàn Quốc. Nên việc học tập kinh nghiệm cải cách giáo dục ở Hàn Quốc là vô cùng
quan trọng và cần thiết. Do Việt Nam
và Hàn Quốc có nhiều điểm tường đồng về
văn hóa, tư tưởng học thuật…Nhưng chúng ta cũng phải học tập các kinh nghiệm
trên ở mức độ nhất định và cũng trên cơ sở bảo tồn và phát huy truyền thống dân
tộc Việt Nam.
Qua phần trình bày trên tôi cũng xin đưa ra vài đề xuất như:
1.
Cần tăng cường hơn nữa việc nghiên cứu, hội thảo, tọa đàm để trao đổi kinh nghiệm
về cải cách giáo dục của Hàn Quốc để làm kinh nghiệm cho Việt Nam.
2.
Hiện nay, do nhiều nguyên nhân, ở Việt Nam chưa có nhiều hệ thống các công
trình nghiên cứu chuyên sâu về lịch sử, văn hóa, kinh tế - xã hội, quan hệ Việt
Nam - Hàn Quốc cũng như về cải cách giáo dục ở Hàn Quốc và các công trình này
cũng chưa được phổ biến rộng rãi. Do vậy, trong tương lai gần, chúng ta cần phải
khắc phục tình trạng này, trong đó vai trò của Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á là vô
cùng quan trọng.
3. Trong quá trình xây dựng và thay sách giáo
khoa mới ở Việt Nam
cũng nên biên soạn các nội dung về lịch sử, văn học, địa lý Hàn Quốc … để mở rộng
vốn hiểu biết về đất nước khá nổi tiếng này.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1.Báo Cáo Của Ủy Ban Cải Cách Giáo Dục
Trực Thuộc Tổng Thống Hàn Quốc: Cải cách
giáo dục cho thế kỷ XXI -Bảo đảm để dẫn đầu trong kỷ nguyên thông tin và toàn cầu
hóa, Biên dịch Nguyễn Quang Kính, Hiệu đính Phạm Đỗ Nhật Tiến, Nxb Giáo dục,
HÀ NỘI, 2006.
2.Ngô Xuân Bình (chủ biên), Tìm hiểu cải cách giáo dục ở Hàn Quốc,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002.
3.Huỳnh Văn Giáp: Địa lý Đông Bắc Á – Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản (Môi trường tự
nhiên và các đặc điểm nhân văn, kinh tế - xã hội), Nxb ĐHQG TP.HCM, 2004.
4.Hoàng Văn Hiển: Quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Hàn Quốc (1961 - 1993) và
kinh nghiệm đối với Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.
5.Hoàng Văn Hiển: Tiếp cận lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam – một cách nhìn, NXB Chính
trị quốc gia, HÀ NỘI, 2009.
7. Hoàng Văn Hiển, Giáo dục và Đào tạo
ở Hàn Quốc, Nxb Lao động, Hà Nội, 1998.
8.Trần Anh Phương, Cải cách giáo dục ở Hàn Quốc, http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2009/05/31/2980-3/
**
Trường Đại học khoa học, Đại học Huế
[1] Hoàng Văn Hiển, Giáo dục và Đào tạo ở Hàn Quốc, Nxb Lao
động, Hà Nội, 1998, tr.4.
[2] Trần
Anh Phương, Cải cách giáo dục ở Hàn Quốc,
http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2009/05/31/2980-3/
[3] Hoàng
Văn Hiển, Tiếp cận lịch sử thế giới và lịch
sử Việt Nam – một cách nhìn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr172.
[4] Hoàng
Văn Hiển, Quá trình phát triển kinh tế -
xã hội của Hàn Quốc (1961 - 1993) và kinh nghiệm đối với Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.
[6] Ngô
Xuân Bình (chủ biên), Tìm hiểu cải cách
giáo dục ở Hàn Quốc, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002, tr.8.
[7] Hoàng
Văn Hiển, Quá trình phát triển kinh tế -
xã hội của Hàn Quốc (1961 - 1993) và kinh nghiệm đối với Việt Nam, Sđd, tr.253.
[8] Hoàng
Văn Hiển, Quá trình phát triển kinh tế -
xã hội của Hàn Quốc (1961 - 1993) và kinh nghiệm đối với Việt Nam,Sđd, tr.27.
[9] Báo cáo của Ủy
ban cải cách giáo dục trực thuộc Tổng thống Hàn Quốc, Cải cách giáo dục cho thế kỷ XXI – Bảo đảm để dẫn đầu trong kỷ nguyên
thông tin và toàn cầu, NXB Giáo dục, 2006, Hà Nội, tr32.
[10] Ngô Xuân Bình
(Chủ biên), Tìm hiểu cải cách giáo dục ở Hàn Quốc, Sđd, tr.14.
[11] Hoàng Văn Hiển, Tiếp cận lịch sử thế giới và lịch sử Việt
Nam – một cách nhìn, Sđd, tr.179.
[12] Hoàng Văn Hiển, Quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
Hàn Quốc (1961 - 1993) và kinh nghiệm đối với Việt Nam,Sđd, tr.201.
[13] Hoàng Văn Hiển, Quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
Hàn Quốc (1961 - 1993) và kinh nghiệm đối với Việt Nam,Sđd, tr.95.
[14] Ngô Xuân Bình
(Chủ biên), Tìm hiểu cải cách giáo dục ở Hàn Quốc, Sđd, tr.59.
[15]Ngô Xuân Bình (Chủ
biên), Tìm hiểu cải cách giáo dục ở Hàn Quốc, Sđd, tr.66.
[17] Hoàng
Văn Hiển, Quá trình phát triển kinh tế -
xã hội của Hàn Quốc (1961 - 1993) và kinh nghiệm đối với Việt Nam,Sđd,
tr.202.
[18] Hoàng
Văn Hiển, Quá trình phát triển kinh tế -
xã hội của Hàn Quốc (1961 - 1993) và kinh nghiệm đối với Việt Nam,Sđd,
tr.203.
[22] Huỳnh Văn Giáp,
Địa lý Đông Bắc Á – Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản (Môi trường tự nhiên và
các đặc điểm nhân văn, kinh tế - xã hội), NXB Đại học quốc gia TP.HCM, 2004,
tr.205.
[23] Hoàng Văn Hiển, Quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
Hàn Quốc (1961 - 1993) và kinh nghiệm đối với Việt Nam,Sđd, tr.46.
[24]Hoàng Văn Hiển, Quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
Hàn Quốc (1961 - 1993) và kinh nghiệm đối với Việt Nam,Sđd, tr.215.
[25]Hoàng Văn Hiển, Quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
Hàn Quốc (1961 - 1993) và kinh nghiệm đối với Việt Nam,Sđd, tr.202.
[28] Hoàng
Văn Hiển, Quá trình phát triển kinh tế -
xã hội của Hàn Quốc (1961 - 1993) và kinh nghiệm đối với Việt Nam,Sđd,
tr.225.
[29] Hoàng
Văn Hiển, Quá trình phát triển kinh tế -
xã hội của Hàn Quốc (1961 - 1993) và kinh nghiệm đối với Việt Nam,Sđd, tr.91.
[30] Hoàng
Văn Hiển, Quá trình phát triển kinh tế -
xã hội của Hàn Quốc (1961 - 1993) và kinh nghiệm đối với Việt Nam,Sđd,
tr.200.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét