Miếu Bà ở Côn Đảo thờ ai ?
TS.Đinh Văn Hạnh
Ở
Côn Đảo (tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu) có một ngôi miếu gọi là miếu Bà, cũng có
tài liệu ghi là An Sơn miếu, nhưng phổ biến nhất là tên gọi đền thờ bà
Phi Yến. Cũng phải nói ngay rằng miếu Bà là ngôi miếu duy nhất ở Côn
Đảo, ngày 18-10 âm lịch hàng năm, có diễn ra lễ hội trang trọng do ngành
văn hóa tổ chức. Miếu Bà đã được UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu quyết định
xếp hạng di tích cấp tỉnh và là một trong những hạng mục của dự án quy
hoạch tổng thể trùng tu, tôn tạo và phát huy tác dụng di tích lịch sử
Côn Đảo theo quyết định số 264/2005/QĐ-TTg
ngày 25-10-2005 của Thủ tướng Chính phủ về đề án phát triển kinh tế-xã
hội huyện Côn Đảo đến năm 2020. Có thể nói miếu Bà là một trong rất ít
di sản văn hóa dân gian của Côn Đảo.
Sẽ
là không có gì để bàn khi nguồn gốc miếu Bà đã được đăng tải trên mạng,
được giới thiệu trong hầu hết các website, ấn phẩm, báo chí quảng bá du
lịch từ trung ương đến địa phương (cả tiếng Việt lẫn tiếng Anh) và bất
cứ du khách nào ra Côn Đảo, đến miếu Bà đều được nghe truyền thuyết sau
đây:
“Miếu Bà được xây lần đầu tiên từ năm 1785 để thờ bà Phi Yến, vợ của Nguyễn Ánh, sau này là vua Gia Long.
Ngôi
miếu này rất linh thiêng đối với những người dân trên đảo và nó gắn
liền với một câu chuyện bi thương của người phụ nữ tài sắc, giàu lòng
yêu nước. Năm 1783, sau khi thua quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh mang theo vợ,
con và khoảng 100 gia đình thuộc hạ chạy ra đảo Côn Sơn. Cùng với những
người dân chài đang sinh sống ở Côn Sơn, Nguyễn Ánh đã lập nên 3 làng
là: An Hải, An Hội và Cỏ Ống. Để đánh lại quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh dự
định gửi con cả là hoàng tử Cảnh đi theo cố đạo Bá Đa Lộc sang Pháp cầu
viện. Bà Phi Yến tên thật là Lê Thị Răm là vợ thứ của Nguyễn Ánh đã can
ngăn chồng, đừng làm việc "cõng rắn cắn gà nhà" để người đời chê
trách. Nguyễn Ánh không những không nghe lời khuyên của bà mà còn tức
giận, nghi bà thông đồng với quân Tây Sơn, nên định giết bà. Nhờ quân
thần can xin, Nguyễn Ánh đã tống giam bà vào một hang đá trên đảo Côn
Lôn nhỏ, về sau núi đó được đặt tên là hòn Bà. Khi quân Tây Sơn đánh ra
đảo, Nguyễn Ánh bỏ chạy ra biển. Hoàng tử Cải (còn gọi là hoàng tử Hội
An), con bà Phi Yến lúc đó mới 4 tuổi đòi mẹ đi cùng. Trong cơn tức giận
và nghĩ rằng bụng dạ Cải rồi cũng như mẹ nó nên Nguyễn Ánh đã ném con
xuống biển. Xác hoàng tử Cải đã trôi vào bãi biển Cỏ Ống. Dân làng đã
chôn cất hoàng tử. Bà Phi Yến, theo truyền thuyết được một con vượn và
một con hổ cứu ra khỏi hang và về sống với dân làng Cỏ Ống để trông nom
mộ hoàng tử Cải. Một lần, sau khi bị một kẻ xấu xúc phạm bà đã tự tử để
thủ tiết với chồng.
Nhân
dân trên đảo vô cùng thương tiếc bà và đã lập nên ngôi miếu to, đẹp để
thờ bà. Năm 1861, sau khi chiếm đảo, Pháp đã quyết định di dời toàn bộ
dân vào đất liền để xây nhà tù. Ngôi miếu bị đổ nát dần. Năm 1958, nhân
dân trên đảo đã xây dựng lại ngôi miếu trên nền cũ. Từ truyện tích trên
mà Nam Bộ có câu ca “Gió đưa cây Cải về trời/Rau Răm ở lại chịu lời đắng cay” (chữ cải trong lời ca này được người ta viết hoa vì cho rằng đó là tên mà cũng là tượng trưng cho hoàng tử Cải, tương tự chữ răm cũng vậy)([1]).
Nội
dung câu chuyện trên (di sản văn hóa phi vật thể) gắn với ngôi đền (di
sản văn hóa vật thể) là căn cứ để di tích này được xếp hạng. Với tính
chất là di sản văn hóa dân gian, miếu Bà rất được chú ý trong quần thể
di tích lịch sử cách mạng nhà tù Côn Đảo.
Câu
chuyện trên (gắn với miếu Bà) gần như được thừa nhận “hiển nhiên” và
không ai đặt lại vấn đề vì cho rằng truyền thuyết đó đã được lưu truyền
“rộng rãi từ rất lâu”, liên quan nhiều sự kiện lịch sử và quá trình bôn
tẩu của Nguyễn Ánh cũng như vài tính cách mà người đời suy xét ở ông.
Với sự sưu tầm còn có hạn, bài viết này muốn đặt lại vấn đề có phải miếu
Bà hay An Sơn miếu ở Côn Đảo từ năm 1785 đã thờ bà Phi Yến, thứ phi của
Nguyễn Ánh không?
Nguyễn Ánh-Gia Long có bao nhiêu vợ con?
Theo Nguyễn Phúc Tộc thế phả
do Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc Tộc biên soạn, nhà xuất bản Thuận Hóa ấn
hành năm 1995 thì Nguyễn Ánh có tất cả 21 bà vợ, 13 hoàng tử và 18
hoàng nữ. Thế phả ghi rõ họ
tên, lai lịch từng bà nhưng không thấy có ai tên là Răm (Lê Thị Răm) hay
thụy là Phi Yến cũng như không có hoàng tử nào tên là Cải hay Hội An.
Nhưng chúng ta hãy tạm tin giả định bà Lê Thị Răm và đứa con trai mới 4
tuổi của Nguyễn Ánh vì làm trái ý đã bị ông giết nên không được đưa vào Thế phả!
Nguyễn
Ánh sinh ngày 8-2-1762. Ông cùng chúa Duệ Tông Nguyễn Phúc Thuần phải
cậy nhờ bóng tối chạy thoát khỏi thành Phú Xuân đêm 28 Tết Ất Mùi (1775)
trước sự truy đuổi của quân Trịnh. Lúc ấy Nguyễn Ánh là một cậu bé 13
tuổi. Không thấy tài liệu nào nói hoàng tôn Nguyễn Ánh đã mang theo một
bà vợ nào trong khi chạy trốn.
Người vợ đầu tiên của Nguyễn Ánh là bà Tống Thị Lan được “tiến cung” rồi tấn phong là “Nguyên phi” (cũng có thể hiểu là người vợ thứ nhất) trên đất Gia Định vào năm 1778([2]).
Khi ấy, Nguyễn Ánh 16 tuối, trở thành Nhiếp chính quốc sau khi Duệ Tông
và Tân Chính vương bị quân Tây Sơn giết ở Long Xuyên. Người vợ thứ hai
là bà Trần Thị Đang (sinh năm 1769) được tấn phong “Nhị phi”,
vốn là người có công hầu hạ mẹ Nguyễn Ánh trong những ngày bà chạy trốn
quân Trịnh ở An Du và đã cùng bà trốn vào Gia Định khi Nguyễn Ánh trở
thành Nhiếp chính. Những bà vợ khác của Nguyễn Ánh đều được tiến cung
khi ông đã là vua Gia Long (từ 1802). Bà Tống Thị Lan sinh được hai
hoàng tử là Nguyễn Phúc Chiêu (mất lúc còn nhỏ) và Nguyễn Phúc Cảnh, tức
hoàng tử Cảnh được đưa sang Pháp làm con tin lúc 4 tuổi (1784). Còn Nhị
phi Trần Thị Đang những ngày cùng Nguyễn Ánh phiêu dạt trước sự truy
đuổi của Tây Sơn thì ngày đêm cầu khẩn xin thái bình rồi mới sinh con.
Vì nếu có con mà bỏ đi thì bất nhân mà mang theo thì bận lòng chúa
thượng. Mãi tới năm 24 tuổi (1791), khi Nguyễn Ánh đã làm chủ Nam Bộ và
Bình Thuận thì bà sinh được hoàng tử Đảm (sau này là vua Minh Mạng). Như
vậy, trong 17 năm bôn ba, Nguyễn Ánh chỉ sinh được 3 hoàng tử, trong đó
Nguyễn Phúc Chiêu bị bệnh chết lúc còn nhỏ. Không thấy có bà vợ nào là
Phi Yến sinh hoàng tử Cải cả.
Cũng
cần nói thêm các bà vợ của Nguyễn Ánh trong thời gian ông bôn tẩu khắp
nơi chưa thấy ai được ban tên thụy. Vì vậy, nếu bà Răm đã làm trái ý ông
phải tội chết mà lại mang cái tên thụy Phi Yến thì không thể có chuyện
Gia Long đã ban tặng sau năm 1802.
“Gió đưa cây cải về trời. Rau răm ở lại chịu lời đắng cay”
là câu ca khá phổ biến ở Nam Bộ, nhưng không rõ xuất hiện trong thời kỳ
nào. Có điều nếu theo câu chuyện trên thì câu ca đó phải ra đời sau khi
bà Phi Yến qua đời. Ai cũng biết ẩn ý của câu ca này chủ yếu là để bày
tỏ sự trách cứ người gây ra một việc gì đó rồi ra đi để người ở lại phải
chịu hậu quả, điều tiếng... Cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của câu ca
chẳng ăn nhập gì với nội dung câu chuyện của bà Phi Yến và hoàng tử Cải,
kể cả khi câu chuyện này là có thật đi nữa. Nhưng…
Nguyễn Ánh có tới Côn Đảo không?
Câu
chuyện về bà Phi Yến và hoàng tử Cải dễ dàng được chấp nhận vì ngay
trong biên niên sử của nhà Nguyễn có nói rằng Nguyễn Ánh đã chạy ra Côn
Đảo tránh sự truy đuổi của quân Tây Sơn vào đúng cái thời điểm mà truyện
tích trên “sắp đặt”. Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ, quyển 2 và cả Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập viết
rằng tháng 7 năm Quý Mão 1783, Nguyễn Ánh đem binh ra đảo Côn Lôn. Quân
Tây Sơn biết nên đem đại đội chiến thuyền ra vây ba vòng, quân binh
trùng trùng điệp điệp. Tưởng không thể thoát được nhưng may thay khi
trời đang trong thì giông bão lại nổi lên nhấn chìm nhiều chiến thuyền
Tây Sơn, nhờ vậy mà Nguyễn Ánh thoát được về đảo Phú Quốc. Dù là ghi
chép của các sử gia Quốc sử quán triều Nguyễn cũng có ít nhất hai điều
làm người ta nghi ngờ. Thứ nhất, trước đó (tháng 6) Nguyễn Ánh đã bị
quân Tây Sơn đánh cho tơi bời trên vùng biển Hà Tiên-Phú Quốc, đến nỗi
Cai cơ Lê Phước Điển phải đóng vai Lê Lai cứu chúa, Nguyễn Ánh mới thoát
được. Nhiều tướng lĩnh của Nguyễn Ánh đã bị quân Tây Sơn bắt và giết.
Liệu Nguyễn Ánh còn đủ thuyền bè, binh lực để vượt biển ra Côn Đảo được
chăng? Thứ hai, đảo Côn Lôn cách đất liền hơn trăm cây số, từ Đông sang
Tây dài hơn 15km, nơi rộng nhất đến 9km với diện tích trên 51km2,
quân Tây Sơn do Phò mã Trương Văn Đa chỉ huy làm sao đủ thuyền ghe để
vây kín ba vòng giữa muôn trùng biển khơi? Sự nghi ngờ về sự kiện lịch
sử này ghi trong Đại Nam thực lục từ những năm 40 của thế kỷ trước đã được tạp chí Tri Tân
đặt ra tranh luận và giải quyết (số 50-14 Juin 1942; số 61- 26 Aout
1942; số 67-7 Octobre 1942)… Họ đã đưa ra được những chứng cớ thuyết
phục, kể cả việc phủ nhận tên gọi núi Chúa ở Côn Đảo không “liên quan”
gì đến Nguyễn Ánh([3]). Nhưng các tác giả trên tạp chí Tri Tân
cũng là người đi sau. Vì sự nhầm lẫn của các sử gia nhà Nguyễn chép lại
quá trình bôn ba của Nguyễn Ánh đã được sử gia người Pháp Ch. Maybon
đính chính rất rõ ràng trong cuốn Histoire moderne du pays d‘Annam, 1582-1820 (Paris, Plon, 1919), rằng “đảo Côn Lôn”-vốn chỉ được “nghe kể chép lại”, trong Đại Nam thực lục
chính là đảo Cổ Long (Koh Kong), một hòn đảo nhỏ nằm phía biển
Campuchia, gần vùng biển Hà Tiên-Phú Quốc chứ không phải Côn Lôn/Côn Đảo
mà mọi người đã biết-đây chỉ là sự nhầm lẫn khi chuyển chữ Koh Kong
sang Hán tự. Trong gần 10 năm bị Tây Sơn truy lùng gắt gao nhất, Nguyễn
Ánh chưa từng và cũng không đủ sức để chạy ra Côn Đảo. Đến khi binh lực
lớn mạnh thì ông lại bận rộn với việc truy kích quân Tây Sơn đến tận Phú
Xuân và ở đó làm vua cho đến lúc qua đời mà không một lần đến Côn Đảo([4]). Vậy thì…
An Sơn miếu thờ ai?
Cho
đến cuối thể kỷ 17, Côn Đảo vẫn chưa có cư dân người Việt sinh sống.
Theo một số tài liệu thì trước đó hòn đảo này là địa bàn của vương quốc
Châu Mạ và sau đó người Chăm từng đến đây sinh sống. Cái tên Pulau
Kundur (đảo bí) mà người Pháp sau này phiên âm là Poulo condore vốn là
tiếng của người Nam
đảo (Malayo-polynesian). Năm 1723, theo ghi chép của một người Pháp khi
đến Côn Lôn thì lúc ấy trên đảo có khoảng 200 người. Đây là lớp cư dân
đầu tiên của làng An Hải sau này. Năm 1789, Côn Đảo có “không đầy 60 gia
đình đi trốn sống ngắc ngoải trong cảnh nghèo đói cực độ” (dẫn theo
Phạm Xanh, Tìm hiểu quá trình hình thành một làng đảo-làng An Hải, tạp chí Nghiên cứu lịch sử,
số 1, 2-1987). Thời Minh Mạng, Côn Đảo có một đội quân đồn trú thường
trực nhưng phải khai khẩn đất hoang để tự túc lương thực. Minh Mạng còn
ban dụ chiêu dân trong các tỉnh nếu tình nguyện ra Côn Lôn làm ăn, sinh
sống thì cấp tiền vốn mỗi người 10 quan. Vì vậy, đến giữa thế kỷ 19, dân
số trên đảo lên tới 1.000 người. Cư dân đến Côn Đảo từ nhiều nguồn khác
nhau, nhưng khi đến đây, đa số họ đều gắn với nghề biển vì các rẻo đất
ven núi chật hẹp, lại phụ thuộc hai mùa mưa nắng nên rất khó bám nghề
nông.
An
Sơn miếu của ngư dân làng An Hải có thể đã được xây dựng trước khi thực
dân Pháp biến nơi đây thành nhà tù (1862). Và có thể là nơi thờ Bà Chúa
Tiên hoặc Bà Chúa Ngọc là vị thần bảo trợ cư dân miền biển và hải đảo
mà cư dân phía Nam
thường tôn thờ (vốn có nguồn gốc từ người Chăm). Cũng có thể đấy là đền
thờ Thủy Long Thánh Phi, một nữ thần sông nước, có hai người con là Cậu
và “Bà” Cậu là những vị thần cai quản các hải đảo hoặc cù lao ven sông
ven biển. Hiện nay, ở Côn Đảo vẫn còn một cái am nhỏ gọi là miếu Cậu mà
người ta gán cho là đền thờ hoàng tử Cải. Nhưng đây là những phỏng đoán
ban đầu, vì miếu Bà nguyên thủy đã bị ngôi miếu mới “chồng lên” từ năm
1958 để thờ bà Phi Yến. Các hoành phi câu đối mới chỉ ca ngợi đức bà chung chung, không đưa lại thông tin gì cho nhận định trên, mặc dù bức hoành phi Hán tự An Sơn miếu sơn son thếp vàng vẫn còn treo trước chính điện.
Có
một thực tế là ở Côn Đảo còn lưu truyền nhiều chuyện kể dân gian. Mỗi
đỉnh núi, mỗi hòn đảo, mỗi địa danh, mỗi vùng biển, mõm đá… đều có sự
tích. Theo tìm hiểu bước đầu của chúng tôi, hầu hết những câu chuyện đó
đã ra đời trong thời kỳ Côn Đảo là nhà tù. Đó là câu chuyện của những
người tù. Họ đã sáng tác ra chúng trong những tháng ngày bị đày ải để
bày tỏ tinh thần lạc quan yêu đời và đôi khi gửi gắm tình cảm yêu nước,
căm thù giặc…
*
Trở
lại với truyền thuyết trên có vài điều để suy ngẫm. Câu chuyện có nhiều
mâu thuẩn và thiếu lôgic. Nhưng người ta cứ tuyên truyền mỗi khi cần
giới thiệu về Côn Đảo như đó là một cách để thỏa mãn việc kết tội Nguyễn
Ánh.
Nguyễn
Ánh được xem là một người khôn ngoan, tài trí. Dù bao phen phiêu bạt
chân trời góc biển vẫn một lòng vì cơ nghiệp tổ tông. Ông biết chọn
người, dùng người và giàu lòng thương quân sĩ; chí hiếu với mẹ, chí tình
với vợ và rất yêu thương con cháu. Điều này không phải nghe theo một
chiều từ ghi chép của Thế phả
tộc Nguyễn mà người ta có thể cảm nhận được trong những ngày Nguyễn Ánh
17, 18 tuổi bôn ba trên đất Gia Định. Giết vợ, vứt con mới 4 tuổi xuống
biển đáng sợ hơn cả hổ dữ theo như câu chuyện trên làm sao thu phục
nhân tâm, nhất là trong cơn biến loạn bị truy đuổi liên tục để dựng
nghiệp đế vương như Nguyễn Ánh đã quyết tâm và làm được? Sự nhầm lẫn địa
danh của các sử gia nhà Nguyễn đã tạo chỗ dựa cho một truyền thuyết tai
hại, không lấy gì làm dễ chịu về vị vua yêu quý của họ. Các sử gia đâu
biết rằng sự sai lầm đó, sau này, một lần nữa (và có thể mãi mãi) đã
“giết chết” Nguyễn Ánh trên một hòn đảo đau thương nơi tận cùng đất
nước?
Đảo Côn Lôn là một hòn đảo đặc biệt trong số các hòn đảo của Việt Nam.
Từ năm 1862, những người dân chài ở đây đã phải ra đi sau hơn 100 năm
xây dựng làng xóm để nhường chỗ cho nhà tù. Lịch sử tồn tại 113 năm của
nhà tù thực dân đã phủ che lớp văn hóa dân gian hiếm hoi trên đảo để
viết nên những câu chuyện khác. Những câu chuyện của nhà tù, của người
tù có thể đã khác xa những câu chuyện dân gian của người đánh cá. Câu
chuyện về bà Phi Yến là một truyền thuyết lịch sử, nhưng lại quá xa lạ
với sự thật lịch sử đã phủ che lớp văn hóa dân gian hiếm hoi của Côn Đảo
không biết còn tồn tại đến bao giờ?
Thành phố Hồ Chí Minh, 25-9-2007
(bài viết này đã được đăng trong Tạp trí Xưa và Nay số 296 XI -tháng 11 2007 tr26-29 http://4phuong.net/ebook/67808177/mieu-ba-o-con-dao-tho-ai.html)
([3])
Cũng xin nói thêm, nếu người dân Côn Đảo quý trọng bà Phi Yến, căm ghét
Nguyễn Ánh thì tại sao lại phải đặt tên ngọn núi cao nhất cho ông? Tôi
có đọc đâu đó Trần Quốc Vượng viết ở Việt Nam đi điền dã ở đâu cũng thấy có núi Chúa.
Xin
cung cấp thêm một số chi tiết cũng cần quan tâm về vấn đề trên. Mặc dù
Bá Đa Lộc thất bại trong việc kêu gọi Pháp hỗ trợ binh lực cho Nguyễn
Ánh đánh lại Tây Sơn, nhưng theo phân tích tình hình của một số thương
gia, thuyền buôn nước ngoài thì giúp chúa Nguyễn sẽ có lợi về sau. Vì
vậy, họ đã giúp hoặc mua giúp Nguyễn Ánh vũ khí, kể cả các đội thủy quân
tình nguyện. Do tình hình Gia Định còn phức tạp nên Côn Lôn là nơi
thích hợp để tàu buôn nước ngoài cập bến cung cấp vũ khí giúp Nguyễn
Ánh. Ngày 19-9-1788, tại Côn Lôn, tàu La Dryade đã chuyển tới cho Nguyễn
Ánh 1.000 khẩu súng (trên chuyến tàu này binh nhì Pháp Olivier đã trốn ở
lại đảo rồi theo Hồ Văn Nghị về phục vụ Nguyễn Ánh. Olivier là người
Pháp có nhiều công lao trong việc dựng nghiệp của Nguyễn Ánh). Năm 1789,
Nguyễn Ánh đã đặt viên quan ở Côn Lôn để mời và tiếp nhận tàu thuyền
phương Tây tới. Cuối năm 1790, Côn Lôn trở thành một điểm nuôi ngựa cho
đội quân Nguyễn Ánh dùng. Sau này, khi Nguyễn Ánh đã hoàn toàn làm chủ
đất Gia Định thì Vũng Tàu và Bến Nghé là nơi cập bến của các tàu thuyền
nước ngoài đến giúp hoặc buôn bán với Nguyễn Ánh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét