PGS. TRẦN NGHĨA
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
( I )
Hướng tiếp cận của bản tham luận này, như tiêu đề đã chọn, là thử phân loại Nho học Việt Nam (1) qua các thời kỳ, nhằm góp phần làm rõ tiến trình lịch sử của Nho giáo ở Việt
Nam, cũng như chỗ giống nhau và khác nhau của nó đối với Nho giáo ở các
nước cùng khu vực mà trước hết là Trung Quốc, một vấn đề hiện đang được
nhiều người quan tâm (2).
Để
tiện đối chiếu, so sánh với những gì liên quan đến nguồn gốc và sự chịu
ảnh hưởng, tác động từ bên ngoài của nó, trước khi tiến hành phân loại
Nho học Việt Nam, hãy nhìn lại một chút diễn trình lịch sử của Nho học
Trung Quốc. Theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu (3), Nho học Trung Quốc đã trải qua bốn giai đoạn phát triển chính, có thể tóm tắt như sau :
1. Nho học nguyên thuỷ thời Tiên Tần : do Khổng Tử sáng lập. Mạnh Tử và Tuân Tử thừa kế, phát huy.
Khổng
Tử (551 – 479 TCN) là người đầu tiên xây dựng hệ tư tưởng Nho giáo. Ông
đã thực hiện một bước đột phá ngoạn mục : nâng một số nhà "nho" (thuật
sĩ, như "vu", "sử", "chúc", "bốc" ...) (4) chuyên sống bằng nghề "trị tang, tướng lễ" (hướng dẫn hoặc tham
gia thực hiện các nghi thức khi cử hành lễ tang hoặc lễ hiến tế các
thần linh) hồi bấy giờ lên thành những trí thức được trang bị cả một hệ
thống lý luận về "lễ" với một hàm nghĩa rộng hơn, trọng đại hơn. Những
người được đào tạo theo hướng mới này không còn phải sống lay lắt vì
"miếng cơm, manh áo" nữa, mà họ sống đàng hoàng vì "đạo". Từ đám "tiểu
nhân nho", họ bứt lên làm "quân tử nho", như chính lời Khổng Phu Tử,
người đã làm thay đổi cuộc đời họ từng khích lệ : "Các em từ đây học
làm nho quân tử, đừng làm nho tiểu nhân"(Nhữ vi quân tử nho, vô vi tiểu
nhân nho – Luận ngữ. Ung dã).
Nho học của Khổng Tử được đánh dấu bằng các phạm trù, khái niệm, thuật ngữ, mệnh đề ... như :
Nhân 仁. Trung thứ 忠 恕. Hiếu đễ 孝 悌. Tính tương cận, tập tương viễn 性 相 近, 習 相 遠.
Lễ 禮. Tôn tôn, thân thân 尊 尊, 親 親. Chính danh 正 名. Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử 君 君, 臣臣, 父父, 子子.
Trung dung 中 庸. Bất hoạn bần nhi hoạn bất quân, bất hoạn quả nhi hoạn bất an 不 患貧而患不均, 不患寡而患不安 (5).
Thiên mệnh 天 命. Tử sinh hữu mệnh, phú quý tại thiên 死 生 有 命, 富 貴 在 天. Quỷ thần 鬼 神. Kính nhi viễn chi 敬 而 遠 之.
Hữu giáo vô loại 有 教 無 類. Nhân tài thi giáo 因 材 施 教. Học nhi thời tập chi 學 而 時 習 之. Ôn cố nhi tri tân 温 故 而 知 新. Họ nhi bất yếm, hối nhân bất quyện 學而 不 厭 誨 人 不 倦. Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri 知 之 爲 知 之, 不 知 不 爲 知, v.v.
Sau
khi Khổng Tử qua đời, Nho giáo tách thành hai phái : một phái từ Tăng
Sâm truyền sang Tử Tư đến Mạnh Tử, và một phái từ Tử Hạ truyền tới Tuân
Tử. Có thể xem Mạnh Tử và Tuân Tử như đại diện cho hai hướng phát triển
chính của Nho học trong điều kiện xã hội thời Chiến quốc.
Tâm
đắc với nhận định "tính tương cận" (tính người gần gũi với nhau" của
Khổng Tử, Mạnh Tử (372 – 289 TCN) đưa ra thuyết "tính thiện" (tính người
vốn là thiện) và lấy đây làm chỗ dựa cho chủ trương "nhân chính" (đường
lối chính trị mang tính nhân bản và cởi mở) của ông, một kiểu tích cực
vận dụng tư tưỏng "nhân" (yêu thương con người) của Khổng Tử vào lĩnh
vực trị nước. Mặt khác, Mạnh Tử cũng có cách nhìn mới trên một số vấn đề
thuộc Nho học truyền thống. Chẳng hạn về quan hệ "quân thần", Mạnh Tử
không yên tâm với quan điểm "bổn phận" tĩnh tại và một chiều của Khổng
Tử : "Quân sử thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung" (Vua lấy lễ sai khiến
bề tôi, bề tôi hết lòng trung thờ vua). Mà theo Mạnh Tử, cần xem đây như
một quan hệ "hợp đồng" có điều kiện giữa hai bên : "Quân chi thị thần
như thủ túc, tắc thần thị quân như phúc tâm ; quân chi thị thần như
khuyển mã, tắc thần thị quân như quốc quân ; quân chi thị thần như thổ
giới, tắc thần thị quân như khấu thù" (Vua mà coi bề tôi như tay chân,
thì bề tôi sẽ coi vua như ruột rà ; vua mà coi bề tôi như chó ngựa, thì
bề tôi sẽ coi vua như người dưng trong nước ; vua mà coi bề tôi như cỏ
rác, thì bề tôi sẽ coi vua như thù địch). Về quan hệ "quân dân" cũng
vậy. Nếu ở Khổng Tử, ta khó lòng biết được giữa "vua" và "dân" bên nào
"trọng", bên nào "khinh", thì đến Mạnh Tử, vấn đề trở nên rõ ràng, tách
bạch : "Dân vi quý... quân vi khinh" (Dân là trọng ... còn vua thì nhẹ
hơn" ...
Nho học Mạnh Tử được đánh dấu bằng các cụm từ hoặc câu nói như :
Tính thiện 性善. Lương tâm 良心. Lương tri 良知. Lương năng 良能. Tận tâm tri tính tri thiên 盡 心知性知天. Thiện dưỡng ngô hạo nhiên chi khí善養吾浩然之氣 .
Nhân chính 仁政. Vương đạo 王道. Nhân nghĩa 仁義. Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh 民 爲貴, 社稷次之, 君爲輕. Hằng sản hằng tâm 恒產恒心.
Lao tâm giả trị nhân, lao lực giả trị vu nhân, trị vu nhân giả thực nhân, trị nhân giả thực vu nhân 勞 心 者治人, 勞力者治于人, 治于人者食人, 治人者食于人.
Thiên nhân hợp nhất 天人合一, v.v.
Khác với Mạnh Tử, Tuân Tử (313 – 238 TCN) cho bản tính con người là "ác". Sở dĩ có trường hợp trở nên "thiện" là nhờ "nguỵ 僞" tức "nhân vi 人爲", chỉ công phu học tập, tu dưỡng về sau (hậu thiên 後天). Từ nhận định này, Tuân Tử đã lồng thêm vào phạm trù "lễ" của Khổng Tử một nội dung nữa, đó là "pháp 法".
Và như vậy, ông đã biến "lễ" của Khổng Tử mà thực chất là "lễ" của nhà
Chu thành một thứ "lễ" có pha "pháp", thích ứng hơn với xã hội Chiến
quốc thời ông. Cũng có thể nói đây là một bước quá độ từ "lễ trị" sang
"pháp trị" mà sau này Lý Tư và Hàn Phi, hai người học trò xuất sắc của
ông sẽ tiếp tục đi xa. Về quan hệ "quân dân", bên cạnh Mạnh Tử, Tuân Tử
cũng có những khám phá thú vị, như ví "vua" với "thuyền", "dân" với
"nước", nước có thể chở thuyền mà cũng có thể lật thuyền. Hay cho rằng
trời sinh ra dân không phải để "vì vua", phục vụ cho vua ; mà ngược lại,
sinh ra vua là để "vì dân", phục vụ cho dân. Về quan hệ giữa người và
trời, ông đưa ra quan điểm "nhân định thắng thiên". Ở đây, ông vừa thừa
nhận có quy luật khách quan, nhưng đồng thời cũng nhấn mạnh sự nỗ lực
chủ quan của con người. Trong việc truy cầu học vấn, Tuân Tử luôn luôn
khích lệ tinh thần tiến thủ : màu xanh sinh ra từ màu lam, nhưng xanh
hơn màu lam, v.v.
Những câu chữ mang tính biểu trưng cho Nho học Tuân Tử gồm có :
Nhân chi tính ác, kỳ thiện giả nguỵ giã 人之性惡, 其善者僞也.
Lễ pháp kiêm trị, vương bá tịnh dụng 禮法兼治, 王伯並用.
Quân giả chu giã, thứ nhân giả thuỷ giã ; thuỷ tắc tải chu, thuỷ tắc phúc chu 君 者舟也, 庶人者水也 ; 水則載舟, 水則覆舟.
Chế thiên mệnh nhi dụng chi 制天命而用之.
Thanh xuất ư lam nhi thắng ư lam, băng thuỷ vi chi nhi hàn ư thuỷ 青出於藍而胜於藍, 氷水爲之而寒於水, v.v.
Từ
Khổng Tử đến Mạnh Tử, Tuân Tử, mỗi người đều có kiến giải riêng trên
một số vấn đề, nhưng tựu trung, các học thuyết của họ đều dựa trên sự
thừa kế, phát huy thành quả của người đi trước, và từ đó hình thành nội
dung cơ bản của Nho học nguyên thuỷ. Đặc điểm nổi bật của thứ Nho học
này là coi trọng việc hoàn thiện đạo đức cá nhân và sách lược làm cho
dân yên nước trị, được thể hiện qua "nhân học 仁學" của Khổng Tử, "nhân chính 仁政" của Mạnh Tử và "Lễ luận 禮 論“" củ Tuân Tử
2. Nho học nhuốm màu thần học đời Lưỡng Hán.
Đến
triều Hán Vũ Đế (140 – 87 TCN), Nho học được đưa lên ngôi vị "độc tôn".
Nhưng về thực chất, đây không còn là thứ Nho học thời Tiên Tần nữa, mà
là một thứ "Nho học cải biên" do Đổng Trọng Thư (179 – 104 TCN) thiết
kế, nhằm lấy đó làm chỗ dựa để thống nhất tư tưởng hiện đang năm bè bảy
phái của người Trung Quốc hồi bấy giờ. Trên đại thể, thứ Nho học mới này
bao gồm ba thành tố : "âm dương ngũ hành", "vương quyền thần thụ" và
"tam cương ngũ thường".
Tư
tưởng "âm dương ngũ hành" như ta biết, vốn rất thịnh hành vào thời Hán.
Lợi dụng tình hình này, Đổng Trọng Thư đã đem tư tưởng "thiên mệnh", tư
tưởng "thiên nhân cảm ứng", cùng tư tưởng "tông pháp" của Nho học
nguyên thuỷ nhào nặn với tư tưỏng "âm dương ngũ hành" để làm nên thuyết
"vương quyền thần thụ". "Vương quyền" (quyền lực nhà vua) ở đây được
Đổng Trọng Thư luận chứng như là do "Trời" (thần) ban cấp. Trời là chủ
tể của muôn loài, mà vua (Hoàng đế) là con của Trời (Thiên tử), người
thể hiện quyền lực và ý chí của Trời, thay mặt Trời để cai trị nhân
gian. Quyền lực của nhà vua do vậy cũng được xem như tối thượng, thiêng
liêng, bất khả xâm phạm.
Mặt
khác, Khổng Tử từng nói "quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử". Đổng
Trọng Thư đã đem nguyên tắc ứng xử này lồng ghép với quan niệm thần học
"dương tôn, âm ti" để thành thuyết "tam cương ngũ thường". "Tam cương"
(quân vi thần cương, phụ vi tử cương, phu vi thê cương) là phỏng theo
mối quan hệ giữa trời và đất, âm và dương, trong đó bề tôi, con cái, thê
thiếp đều thuộc "âm" ; còn vua, cha, chồng đều thuộc "dương" ; "âm" tất
yếu phải theo "dương". "Ngũ thường" (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) là năm
chuẩn mực về đạo đức tương ứng với "ngũ hành", lấy "tam cương" làm nền
tảng. Đổng Trọng Thư coi "tam cương ngũ thường" là "ý trời" (thiên ý),
và cho rằng "Trời không thay đổi, đạo cũng không thay đổi" (Thiên bất
biến, đạo diệc bất biến). Từ đó về sau, "tam cương ngũ thường" đã trở
thành gông cùm về mặt tinh thần đối với người dân Trung Quốc.
Những câu chữ mang tính biểu trưng cho Nho học thần hoá của Đổng Trọng Thư gồm có :
Vương đạo thông tam 王道通三(Chữ "vương 王" là "vua" gồm 3 vạch đại diện cho Trời, Đất và Người. Nét sổ ở giữa, ý nói có sự tương thông giữa 3 bậc đó). Mệnh vận luận 命 運論.
Quân quyền thần thụ 君權神授. Đạo chi đại nguyên xuất vu thiên, thiên bất biến đạo diệc bất biến 道 之大原出于天, 天不变道亦不变.
Tam cương ngũ thường 三綱五常. Ngũ kinh 五經.
3. Nho học Tống Minh.
Từ
Nguỵ Tấn Nam Bắc triều đến Tuỳ Đường, Nho giáo tuy vẫn ở địa vị chính
thống, nhưng không còn giữ được ngôi vị "độc tôn" như xưa, mà phải luôn
luôn đấu tranh, dung hợp với Đạo giáo và Phật giáo để tồn tại. Nguyên
nhân là vào cuối thời Đông Hán (25 – 220), danh giáo rơi vào tình trạng
khó khăn, cần được cứu vãn. Các nhà huyền học như Vương Bậc (226 – 249),
Quách Tượng (? – 312) bèn nghĩ ra cách dùng triết lý của Đạo gia để
chứng minh cho sự hợp lý và tất yếu của cương thường danh giáo mà không
phải nhờ tới các thuyết "thiên nhân cảm ứng", "vương đạo thông tam",
"quân quyền thần thụ", những đạo bùa hộ mệnh đã mất thiêng. Mặt khác,
Đạo giáo xuất hiện và qua sự gia công, tô vẽ của Cát Hồng (281 – 341),
được giới cầm quyền chấp nhận. Bên cạnh đó, Phật giáo lúc này cũng đang
từ Ấn Độ truyền tới, gặp thời buổi chiến tranh, lòng người chán loạn, đã
có đất để phát triển rộng rãi. Đặc biệt dưới thời nhà Đường, một số
tông phái Phật giáo được Trung Quốc hoá, trong đó, ảnh hưởng lớn nhất
phải kể là Thiền tông (một kết hợp giữa Phật và Nho). Cục diện Nho –
Phật - Đạo hình thành, tạo điều kiện cho một thứ Nho học mới xuất hiện,
đó là Lý học đời Tống, còn gọi là Tống Nho.
Tống
Nho do Chu Đôn Di (1017 – 1073), Thiệu Ung (1011 – 1077), Trình Hiệu
(1032 – 1085), Trình Di (1033 – 1107), Trương Tải (1020 – 1077) đều là
người Bắc Tống khai sáng, và tiếp đó được Chu Hy (1130 – 1200) người Nam
Tống tập đại thành. So với Nho học nguyên thuỷ thời Tiên Tần và Nho học
thần hoá thời Lưỡng Hán thì Lý học đời Tống có thể gọi là một thứ Nho
học phát triển, mang đậm tính tư biện và triết lý. Khi luận chứng về
tính tất yếu của cương thường danh giáo, các nhà Tống Nho đã vất bỏ lập
luận "vương đạo thông tam" có phần đơn giản và thô thiển của Đổng Trọng
Thư. Thay vào đó, họ đưa ra khái niệm "thiên lý" siêu hình để nói về
tính thống nhất của thế giới tự nhiên và các hiện tượng xã hội. Họ nhấn
mạnh thế giới hiện tượng có một nguyên nhân cuối cùng là "thiên lý".
Phạm trù cốt lõi này là một sáng tạo của Tống Nho, như chính một nhân
vật quan trọng trong số họ đã tự
nhận : "Cái học của ta tuy có chỗ tiếp thu từ nơi này nơi khác, nhưng
riêng hai chữ "thiên lý" thì thực do tự ta thể nhận ra" (Trình Hạo ngữ. Nhị Trình ngoại thư, Q. 12). Khái niệm "thiên lý" do Tống Nho đề xuất bao gồm mấy nghĩa sau đây :
a.
"Thiên lý" là cái có trước vũ trụ vạn vật và là nguồn gốc sinh thành
của vũ trụ vạn vật. Muôn vật có sinh có diệt, nhưng "lý" thì trái lại,
vượt ra ngoài vòng sinh diệt đó. Nghĩa là nó tồn tại độc lập, vĩnh hằng.
Nói như Chu Hy : "Khi chưa có trời đất, cái lý này đã có rồi !" Cũng theo ông, "dù trời, đất, muôn vật có sụp đổ đi cả, thì cái lý này vẫn còn đây" (Chu Tử ngữ lục, Q. 1).
b. "Thiên lý" thể hiện ở chế độ đẳng cấp và cương thường luân lý phong kiến do
vua cầm chịch. Hay như Chu Hy từng lý giải : "Thiên lý là cái gì ? Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín lẽ nào không phải là thiên lý ? Quân thần, phụ tử, huynh đệ, bằng hữu lẽ nào không phải là thiên lý ?" (Chu Văn Công văn tập, Q. 59. Đáp Ngô Đẩu Nam).
Cũng ý ấy, trước Chu Hy, Nhị Trình nói : "Phụ tử, quân thần là cái cố
định của thiên hạ, không thể thoát khỏi trong cõi trời đất" (Nhị Trình di thư, Q.5).
c.
"Thiên lý" là sự quy định về bản tính của con người, là cái chí thiện,
là cái đối lập với nhân dục tà ác : "Tính tức thiên lý, không có cái
tính nào mà lại không thiện" (Chu Tử ngữ lục, Q. 12).
Chỉ khi lòng ham muốn về vật chất của con người phủ bóng đen lên tính
thiện, thì mới làm cho tính thiện hoá ra ác. Từ đó các nhà Lý học đời
Tống chủ trương "tồn thiên lý, diệt nhân dục", tức bảo tồn thiên lý,
tiêu diệt lòng ham muốn của con người, điều mà đời sau gọi là chủ nghĩa
"cấm dục" của Tống Nho.
Sang
đời Minh, Vương Thủ Nhân (1472 – 1529) xuất hiện với tư cách một nhà
triết học "đi ngược lại truyền thống" (phản truyền thống). Khác với Tống
Nho, ông cho rằng cái "lý" của muôn sự muôn vật đều ở trong tâm ta. Và
cũng không giống với các nhà Lý học Trình Chu, ông chủ trương : "hiểu
biết và hành động gắn với nhau làm một". Dù vậy, Vương Thủ Nhân vẫn đứng
trong hàng ngũ những nhà "Lý học" nổi tiếng đương thời, các triết
thuyết của ông đã góp phần làm cho Nho học Tống Minh trở thành hệ tư
tưởng chính thống của xã hội Trung Quốc kể từ đầu đời Minh cho đến cuối
đời Thanh.
Những từ ngữ quan trọng do Nho học Tống Minh đề xuất gồm có :
Thiên lý 天理. Tính lý 性理. Thành vô vi, cơ thiện ác 誠 無爲, 機善惡. Vô cực nhi thái cực 無 極 而大 極. Lý nhấ phân thù 理一分殊. Dân ngô đồng bào, vật ngô dữ giã 民 吾同胞, 物 吾與 也. Vạn vật dữ ngô nhất thể giã 萬物 與 吾一体也. Tính sinh tình, tình sinh thiện ác 性 生情,情生善惡. Vạn sự vạ vậ chi lý bấ ngoạ ngô tâm 萬 事 萬 物 之 理 不 外 吾 心. Tâm sinh tiện thị thiên lý 心 明 便 是 天 理. Tiên tri hành hậ 先 知 行 後. Tri hành hợ nhất 知 行 合 一, v.v.
4. "Nho học mới" (Tân Nho học) trong thời kỳ hiện đại.
Đây
là một xu trào văn hoá học thuật xuất hiện từ thế kỷ trước, với ý đồ mở
một lối tương thông giữa triết học phương Tây và Nho học truyền thống
Trung Quốc. Những người đi đầu trong phong trào này vào nửa đầu thế kỷ
XX gồm có Lương Thấu Minh 梁漱溟(Trung Quốc) với cuốn Đông Tây văn hoá cập kỳ triết học ; Hùng Thập Lực 熊十力(Trung Quốc) với loạt bài viết về sự cần thiết phải dung hợp văn hoá Đông Tây ; Hạ Lân 賀麟 (Trung Quố) vớ cuố Tân tâm họ ; Phùng Hữ Lan 馮友兰(Trung Quố) vớ cuố Tân Lý họ. Còn có thể kể thêm một số người ở Đài Loan và Hồng Công đã tích cực đóng góp cho phong trào như Đường Quân Nghị 唐君毅, Mâu Tông Tam 牟宗三, Từ Phụ Quan 徐复觀, Đông Phương Mỹ 東方美 v.v. Từ giữa thế kỷ XX đến nay có Lư Thuật Tiên 劉述先, Đỗ Duy Minh 杜維明(Mỹ, Dư Anh Thời 余英時 v.v. miệt mài "trước thuật lập ngôn", cố gắng đẩy phong trào lên phía trước.
Về đại thể, "Nho học mới" có các đặc điểm sau :
a. Coi Khổng Tử như người có thẩm quyền nhất trong việc đúc kết văn hoá quá khứ và mở ra nền văn hoá tương lai cho Trung Quốc.
b. Chủ trương dung hợp văn hoá Đông Tây, "trở về cội nguồn để mở ra một lối đi mới" (phản bản khai tân 返本開新).
"Cội nguồn" ở đây được hiểu là Nho học truyền thống, mà phần có giá trị
nhất của nó, theo các nhà Tân Nho học, là "tâm tính học" của Lý học
Tống Minh. Còn "lối đi mới", chỉ nền chính trị dân chủ và khoa học kỹ
thuật hiện đại. "Cội nguồn" là "thể", "lối đi mới" là "dụng". Lấy cái
"thể" (nội thánh 內聖) để kiểm soát cái "dụng" (ngoại vương 外王), đó là mục tiêu cần đạt tới của "Tân Nho học".
c. Xem văn hoá Nho gia Trung Quốc như hướng phát triển và đích cuối cùng của văn hoá nhân loại trong tương lai (6).
( II )
Nho học có mặt ở Việt Nam ngay từ những năm đầu Công nguyên (7)
và từ bấy đến nay, nếu có thể nói được như vậy, chưa bao giờ vắng bóng
trên đất nước con Lạc cháu Hồng. Nó đã trải qua nhiều bước thăng trầm,
nhưng nhìn chung, vẫn có thể chia thành ba thời kỳ diễn biến khác nhau :
thời Bắc thuộc ; thời độc lập tự chủ ; và thời văn hoá Tây sang.
1. Nho học Việt Nam thời Bắc thuộc.
Liên quan đến Nho học Việt Nam thời Bắc thuộc, có ba cái mốc lịch sử đáng chú ý :
a. Giai đoạn Tích Quang, Nhâm Diên làm Thái thú Giao Chỉ, Cửu Chân. Sách Hậu Hán thư
chép : "Quang Vũ (25 – 57 CN) trung hưng, Tích Quang làm Thái thú Giao
Chỉ, Nhâm Diên làm Thái thú Cửu Chân. Từ đấy hai người ( ... ) mở trường
dạy học, dẫn dắt dân theo lễ nghĩa" (8). Sách An Nam chí lược
cũng có những ghi nhận tương tự : "Tích Quang người Hán Trung, trong
thời vua Bình Đế (1 – 5 CN) làm Thái thú đất Giao Chỉ, lấy lễ nghĩa dạy
dân ...", Nhâm Diên tự là Trường Tôn, mới 12 tuổi đã thông hiểu Kinh Thi, Kinh Dịch, Kinh Xuân thu, nổi tiếng trong trường Thái học, người ta gọi là "Nhâm thánh đồng". Đầu niên hiệu Kiến Vũ (25 CN) làm Thái thú quận Giao Chỉ" (9).
Những đoạn trích dẫn trên tuy lời văn có khác nhau chút ít, nhưng đều thống nhất với nhau ở chỗ cùng xác nhận thời điểm Nho giáo du nhậpViệt Nam là vào đầu đời ĐôngHán.
Về tính chất thì đây không hẳn là loại Nho học nguyên thuỷ đời Tiên
Tần. Mà các thứ như "lễ nghĩa", "Kinh Thi", "Kinh Dịch", "Kinh Xuân thu"
... được hai viên Thái thú rao giảng ở Việt Nam có phần chắc là đã qua
sự thuyên thích của các nhà huấn hỗ học đời Hán, trong đó Đổng Trọng Thư
là một trụ cột đầy quyền lực. Nói cách khác, Nho học Việt Nam lúc này
cìng loại với Nho học nhuốm màu thần học đời Lưỡng Hán. Về vị thế, nó là
hệ tư tưỏng duy nhất được chính quyền phương Bắc bảo trợ trên vùng đất
mới chiếm đóng.
b. Giai đoạn Sĩ Nhiếp cầm quyền ở Luy Lâu.
Nho
học do Sĩ Nhiếp (136 – 226) truyền bá ở Việt Nam tiếp sau Tích Quang và
Nhâm Diên là thứ đạo Nho nguyên thuỷ được lồng ghép với tư tưỏng đạo
Phật và đạo Lão. Đặc điểm của thứ đạo Nho này là dùng triết thuyết Lão
Trang để luận chứng cho sự hợp lý của cương thường danh giáo mà không
phải nhờ cậy đến "vận mệnh luận", "vương quyền thần thụ" ... như Đổng
Trọng Thư nữa. Mặt khác, nó còn tiếp thu thuyết "vô ngã vô thường", "tu
nhân tích đức" của đạo Phật tuy mới du nhập nhưng tỏ ra có đất sống giữa
thời buổi chiến loạn. Ngô chí chép : "Tổ tiên Sĩ Nhiếp nguyên
là người Vấn Dương nước Lỗ, gặp loạn Vương Mãng (9 – 23), lánh tới đất
Giao Châu, truyền sáu đời đến cha Nhiếp là Tứ làm Thái thú Nhật Nam vào
thời Hoàn Đế (147 – 167). Nhiếp thuở nhỏ du học Kinh đô (Lạc Dương),
theo Lưu Tử Kỳ ở Dĩnh Xuyên nghiên cứu sách Xuân thu Tả Thị" (10).
Đến khi được bổ nhiệm làm Thái thú Giao Châu mà trị sở là Luy Lâu (nay
là Thuận Thành, Bắc Ninh, Việt Nam), Sĩ Nhiếp đã tạo ra ở đây một không
khí tự do học thuật như lời mô tả trong tác phẩm Lý hoặc luận
của Mâu Tử : "Sau khi Linh Đế mất (189 CN), thiên hạ loạn lạc, chỉ có
Giao Châu là còn hơi yên tĩnh. Nhân tài phương Bắc đều lánh về đây ở (11),
phần nhiều theo phép thần tiên tịch cốc, trường sinh, đương thời có
nhiều người theo học. Mâu Tử thường đem Ngũ kinh ra vặn vẹo họ, Đạo gia,
Thuật sĩ không ai dám ứng đối, ví Mâu Tử với Mạnh Kha chống Dương Chu,
Mặc Địch" (12). Riêng Sĩ Nhiếp tuy theo đòi nghiệp Nho, nhưng vẫn hấp thu những gì cần thiết trong tư tưởng Phật, Lão để khả
dĩ tập hợp, đoàn kết đám trí thức theo nhiều khuynh hướng học thuật
khác nhau đang sống trên đất Giao Châu hồi bấy giờ. Sách Đại Việt sử ký toàn thư
chép : "Anh em Vương (chỉ Sĩ Nhiếp – TN) làm quan coi quận, hùng trưởng
một châu, ở lánh ngoài muôn dặm, uy tín không ai hơn. Khi ra vào thì
đánh chuông khánh, uy nghi đủ hết ; kèn sáo thổi vang, xe ngựa đầy
đường, người Hồ (chỉ các nhà sư ấn Độ và Trung Á đến truyền bá đạo Phật ở
Luy Lâu – TN) đi sát bánh xe để đốt hương có đến mấy mươi người" (13).
Sách ghi tiếp : "Năm Bính Ngọ (226) Vương mất. Trước Vương ốm, đã chết
đi ba ngày, người tiên (chỉ Đạo sĩ – TN) là Đổng Phụng cho một viên
thuốc hoà vào nước ngậm rồi đỡ lấy đầu mà lay động, một chốc lát mở mắt,
động tay, sắc mặt hồi phục dần dần, ngày hôm sau ngồi dậy được, bốn
ngày đi lại được, rồi trở nên bình thường" (14).
Có
thể thấy ở Giao Châu lúc bấy giờ Nho – Phật – Lão bắt đầu quyện vào
nhau dưới chiếc gậy chỉ huy của Thái thú Sĩ Nhiếp mà các nhà Nho Việt
Nam đời sau từng tôn xưng là "Nam Giao học tổ", tức ông tổ của Nho học
mang sắc thái phương Nam, có khác với Nho học phương Bắc hồi này chủ yếu
vẫn là thứ Nho học thần quyền hoá, do Đổng Trọng Thư khởi xướng.
Về
vị thế, Nho học Sĩ Nhiếp tất nhiên vẫn là hệ tư tưởng chính thống ở
Giao Châu, nhưng nó không còn giữ được địa vị độc tôn như dưới thời Tích
Quang, Nhâm Diên trước đây nữa.
c. Giai đoạn Lý Miễu làm Thứ sử ở Giao Châu.
Vào
thời Lưu Tống (420 – 479), cũng tức là thời gian Lý Miễu làm Thứ sử ở
Giao Châu, tại Việt Nam đã nổ ra một cuộc bút chiến căng thẳng giữa
những người theo phái Nho và những người theo phái Phật. Phái Nho do Lý
Miễu, quan Thứ sử đại diện. Phái Phật do Đạo Cao và Pháp Minh, hai nhà
sư tiêu biểu đất Giao Châu. Nội dung và diễn trình cuộc bút chiến được
phản ánh qua chùm thư gồm 6 bức (các bức số 1, 3, 5 do Lý Miễu viết ;
các bức số 2, 4 do Đạo Cao viết ; và bức số 6 do Pháp Minh viết), thảo
luận về vấn đề tại sao không thấy hình thể thật của Phật xuất hiện trên
đời như Phật điển từng nói tới (15).
Những
câu chữ hoặc đoạn văn liên quan đến Nho giáo được dẫn dụng trong các
bức thư cụ thể như sau : "Kìa chuyện Tam Hoàng Ngũ Đế, Tam đại Ngũ bá,
Cơ Đán Khổng Khâu biên tập Kinh Thi, chế tác Kinh Lễ,
đều nghe nói qua sử sách, nào ai trông thấy đâu! Chuyện họ Thích gióng
trống pháp ở Lộc Viên, Phu tử nêu đức âm ở Tưu Lỗ, tai ta không trực
tiếp được nghe, mắt ta không trực tiếp được thấy, đều là tin theo sách
vở cả. Nếu không tin bên kia, thì sao lại còn vướng mắc đối với bên này"
(Bức thư số 2) (16) ; "Như lời cao nhã
của Pháp sư, ôđã có thể tin bên này, thì cũng có thể nghiệm bên kiaằ,
nhưng [tôi nghĩ] thánh nhân không phải đời nào cũng xuất hiện, Khổng và
Thích lại khác đường. Lấy việc cụ thể mà bàn, không phải là không mâu
thuẫn ; vậy Nho, Thích có thể chứng nghiệm cho nhau được ư ?" (Bức thư
số 3) (17) ; "Tuy Nho, Mặc đua nhau dậy,
Chín dòng ỏm thị phi, nhưng đó là lửa bó cỏ chẳng chịu tắt, chứ đâu
phải mặt trời mặt trăng không chói sáng ; sao cứ nằng nặc đòi thấy Phật
xuất hiện, mà nôn nóng muốn các Đạo phải về một mối ngay như thế ?" (Bức
thư số 4) (18). "Những điều Bảy kinh
trình bày, ý nghĩa gồm cả tương lai ; còn những điều kinh điển nhà Phật
phô diễn, thì sự việc chỉ dừng lại ở ôduyênằ và ôbáoằ" (Bức thư số 5) (19)
; "Trước điều nhân, ta không nhường ai cả" (Đương nhân bất nhượng ư
sư), "biết sống chết có mệnh, giàu sang tại trời" (tử sinh hữu mệnh, phú
quý tại thiên) (Bức thư số 6) (20).
Qua
những đoạn văn trích dẫn trên, đặc biệt là các dụng ngữ như "Cơ Đán",
"Khổng Khâu", "Thi", "Lễ", "Nho", "Khổng, Thích dị đồ", "đương nhân bất
nhượng ư sư", "Tử sinh hữu mệnh, phú quý tại thiên" v.v. ta có thể khẳng
định thứ Nho học mà Lý Miễu dùng làm chỗ dựa là Nho học nguyên thuỷ.
Riêng Thất kinh (Bảy kinh) tuy là sản phẩm của đời Hán (21), nhưng người nhắc đến nó ở đây không nhằm mục đích đề cao loại Nho học mang tính chất thần quyền.
Cuộc
"bút chiến" hình như đã kết thúc sau bức thư số 6 và phần "thắng" có lẽ
không thuộc về Lý Miễu, người khơi ra cuộc tranh luận. Nho học bản địa
giai đoạn này tuy được giới cầm quyền bảo hộ, nhưng rõ ràng không vì vậy
mà ngoi lên được địa vị độc tôn.
Từ
đó trở đi, cho đến cuối thời Bắc thuộc, Nho học Việt Nam phải náu mình
vào đạo Thiền để khả dĩ tồn tại và đợi chờ cơ hội "làm ăn" mới. Điều này
được phản ánh qua 7 đoạn văn đối thoại trong giới Thiền học Việt Nam,
nhất là ở đoạn văn thứ 6 và đoạn văn thứ 7, dự báo việc Lý Công Uẩn lên
làm vua như sách Thiền uyển tập anh đã ghi lại (22).
2. Nho học Việt Nam thời độc lập tự chủ.
Từ
thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIX, Nho giáo với mức độ khác nhau, vẫn là chỗ
dựa của người Việt Nam để xây dựng hệ tư tưởng chính thống trong điều
kiện một vương quốc độc lập tự chủ. Căn cứ vào đặc điểm và vị thế thay
đổi qua lịch sử của nó, ta có thể chia Nho học Việt Nam thời kỳ này ra
làm hai loại chính : Nho học Lý Trần và Nho học từ Lê sơ đến cuối
Nguyễn.
a. Nho học Lý Trần.
Khái
niệm "Lý Trần" ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm các triều đại
từ Ngô, Đinh, Lê đến Lý, Trần, Hồ, Hậu Trần, trong đó Lý và Trần là hai
vương triều tiêu biểu nhất.
Ở
giai đoạn Ngô, Đinh, Lê, tình hình Nho học như thế nào, cho đến nay
chúng ta vẫn chưa được rõ. Nhưng đến triều Lý thì đã có những tín hiệu
cụ thể. Sử chép : sau ngày Lý Thái Tổ (1010 – 1028) mất, các hoàng tử
tranh ngôi, nên khi Lý Thái Tông (1028 – 1054) lên kế vị, hàng năm triều
đình tổ chức cho trăm quan tới dự hội thề tại đền Đồng Cổ, với lời thề
rằng : "Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, xin thần minh giết chết" (23).
Vậy là tư tưởng "trung hiếu", hòn đá tảng của đạo Nho, giờ đây đã được
giới cầm quyền cảm thấy hữu ích đối với việc tái lập sự ổn định trong
nội bộ vương triều. Và điều này cũng góp phần giải thích vì sao đến thời
Lý Thánh Tông (1054 – 1072), Văn miếu được chính thức thành lập tại
Kinh đô Thăng Long để thờ Chu Công, Khổng Tử cùng 72 vị tiên hiền. Nhưng
như vậy vẫn chưa đủ. Cần có những con người được đào tạo theo con đường
Nho học, nhằm giúp cho "nước thịnh, dân yên". Năm 1075, Lý Nhân Tông
(1072 – 1127) lần đầu tiên mở khoa thi Tam trường, lấy đỗ 10 người, Thủ
khoa là Lê Văn Thịnh. Năm 1076, lập trường Quốc tử giám, chọn những
người xuất sắc trong đám Văn nho vào dạy. Năm 1086, mở khoa thi lấy
người vào Hàn lâm viện, Mạc Hiển Tích đỗ đầu, được bổ làm Hàn lâm học sĩ
...
Sang
đời Trần, Nho học tiếp tục được coi trọng. Năm 1232, mở khoa thi Thái
học sinh. Năm 1247, đặt Tam khôi. Năm 1253, lập viện Quốc học để giảng Tứ thư, Ngũ kinh, những sách kinh điển Nho gia.
Nhưng
như thế không có nghĩa là dưới triều nhà Trần, Nho học đã không gặp
phải những trở lực trên đường đi tới của nó. Chứng cứ là hồi Trần Minh
Tông (1314 – 1329) còn đang ở ngôi, một số triều thần như Trương Hán
Siêu, Lê Quát, Phạm Sư Mạnh ... muốn "thay đổi chế độ", nhưng bề trên
của họ đã bác đi với lý lẽ : "Nhà nước đã có phép tắc riêng, Nam Bắc
khác nhau, nếu nghe theo kế của bọn học trò mặt trắng tìm đường tiến
thân thì sinh loạn ngay" (24). Đến đời
Trần Nghệ Tông (1370 – 1372), đường lối văn hoá độc lập tự chủ trên đây
của Trần Minh Tông lại được nhấn mạnh lần nữa : "Triều trước dựng nước,
có luật pháp, chế độ riêng, không theo quy chế của nhà Tống, là vì Nam
Bắc nước nào làm chủ nước đó, không phải bắt chước nhau. Khoảng năm Đại
Trị (1358 – 1369) bọn học trò mặt trắng được dùng, không hiểu ý sâu xa
của việc lập pháp, đem phép cũ của tổ tông thay đổi theo phong tục
phương Bắc cả, như về y phục, âm nhạc ... thật không kể xiết". Và theo
tinh thần đó, về mặt chính sự, Trần Nghệ Tông bắt các bề tôi phải quay
lại với lệ cũ đời Khai Thái (1324 – 1329) (25).
Những
cách nhìn khác nhau trên đây giữa một bên là những người cầm cân nảy
mực của triều đình như Trần Minh Tông, Trần Nghệ Tông và bên kia là các
Nho thần như Trương Hán Siêu, Lê Quát, Phạm Sư Mạnh ... đã cung cấp cho
ta chí ít hai thông tin quan trọng sau đây :
Một
là nên hay không nên "thay đổi chế độ" (cải chế), tức "đề cao đạo Nho,
phê phán đạo Phật" (tôn Nho, bài Phật) như kiểu Hàn Dũ (768 – 824) từng
xướng xuất tại Trung Quốc qua các tác phẩm như Nguyên đạo, Luận Phật cốt biểu
... ? Với Trương Hán Siêu (? – 1354) thì : "Ngày nay thánh triều muốn
mở mang giáo hoá để sửa đổi phong tục đồi bại. Dị đoan đáng phải truất
bỏ, chính đạo phải được phục hưng. Đã là kẻ sĩ đại phu, nếu không phải
đạo Nghiêu, Thuấn không bày tỏ trước vua ; không phải đạo Khổng Mạnh,
không trước thuật" (Khai Nghiêm tự bi ký) (26).
Với Lê Quát (Thế kỷ XIV) thì : "Thuyết hoạ phúc của nhà Phật tác động
tới con người, sao mà được người ta tin theo sâu sắc và bền vững như thế
? Trên từ vương công, dưới đến dân thường, hễ bố thí vào việc nhà Phật
thì dẫu hết tiền của cũng không sẻn tiếc ( ... ). Ta thường dạo xem sông
núi, vết chân trên khắp nửa thiên hạ, đi tìm những "Học cung", "Văn
miếu" mà chưa hề thấy một ngôi nào ! Đó là điều khiến ta vô cùng hổ thẹn
với bọn tín đồ nhà Phật ... " (Bắc Giang Bái thôn Thiệu Phúc tự bi ký) (27).
Còn vua Trần Minh Tông ? Một hôm ông đang ăn chay, Huệ Túc Vương hỏi :
"Thần không biết ăn chay thì có lợi ích gì ?" Biết Huệ Túc Vương là
người hay bài xích Phật, Lão nên Minh Tông trả lời : "Ông cha ta ngày
xưa thường ăn cơm chay cho nên ta bắt chước thôi, còn lợi ích gì thì ta
không biết" (28). Có thể thấy tư tưởng
"cải chế", "tôn Nho, bài Phật" của Hàn Dũ tuy được một số Nho sĩ Việt
Nam tán thưởng, vẫn chưa có điều kiện để phát huy ảnh hưởng ở nước ta
hồi bấy giờ, thậm chí bản thân Hàn Dũ còn bị Hồ Quý Ly sau này phê phán
là "Nho sĩ ăn cắp" !
Hai
là về mặt "y quan, chế độ", cũng tức là đề cập tới các lĩnh vực như văn
hoá học thuật, phong tục tập quán ... mà linh hồn của chúng thuở đó là
Lý học Trình Chu. Thứ "Lý học" này có lẽ được người Việt Nam biết tới
muộn nhất là vào thời Trần Thái Tông khi nhà vua thành lập Viện quốc học
để giảng Tứ thư, Ngũ kinh như trên kia từng nói. Như ta biết, tên gọi Tứ thư mãi đến Chu Hy mới có. Nhan đề đầy đủ của Tứ thư là Tứ thư chương cú tập chú do Chu Hy soạn, bao gồm Đại học chương cú, 1 quyển ; Trung dung chương cú, 1 quyển ; Luận ngữ tập chú, 10 quyển ; Mạnh Tử tập chú, 7 quyển. Trong khi chú giải, Chu Hy đã cố sức lồng ghép, phát huy các luận điểm của học phái Tống Nho mà ông đại diện.
Loại sách Tứ thư
đã "Lý học hoá" này đến đời Trần Minh Tông có lẽ không còn được trọng
vọng như xưa. Phải chăng vì lý do ấy mà khi Chu An được vời ra làm Quốc
tử giám Tư nghiệp, ông "Tân Hiệu phó" đã tự tay biên soạn cuốn Tứ thư thuyết ước gồm 10 quyển để thay thế cho bộ Tứ thư chương cú tập chú
của Chu Hy từng được sử dụng trong các trường Nho học Việt Nam trước
đó. Sang thời Trần Thuận Tông (1388 – 1398), thái độ cự tuyệt Tống học
của triều đình thể hiện ngày càng rõ rệt. Theo sử chép, vào năm 1392, Hồ
Quý Ly soạn sách Minh đạo gồm 10 thiên dâng lên, trong đó đánh
giá rất thấp những người thuộc phái Lý học đời Tống. Theo Quý Ly thì
"Chu Mậu Thúc, Trình Di, Trình Hiệu, Dương Thì, La Trọng Tố, Lý Diên
Bình, Chu Tử tuy học rộng nhưng ít tài, không sát với sự thực, chỉ thạo
cóp nhặt văn chương người xưa". Thượng hoàng Trần Nghệ Tông xem xong,
"ban chiếu dụ khen". Quốc tử Trợ giáo Đoàn Xuân Lôi dâng thư nói Quý Ly
"bàn như thế là không phải", liền bị "đày đi châu gần" (29). Quý Ly còn làm sách Quốc ngữ Thi nghĩa để giảng Kinh Thi, bài tựa sách này cũng phần nhiều viết theo ý mình, "không theo Tập truyện (chỉ Thi tập truyện – TN) của Chu Tử" (30).
Cũng
cần nói thêm rằng việc phê phán Tống Nho không chỉ diễn ra ở Việt Nam.
Mà ngay ở Trung Quốc thời Nam Tống, cũng đã có một số học phái như Vĩnh
Khang, Kim Hoa, Vĩnh Gia, gọi chung là "Chiết Đông học phái" nổi lên
chống Lý học Trình Chu rồi ! Và theo Phan Bội Châu, tư tưởng của phái
Vĩnh Gia khi truyền tới Nhật Bản, đã làm nảy sinh hai nhà đại nho : một
là Y Đằng Nhân Trai, người Nhật Bản gọi là Quật Hà học phái, và hai là
Vật Tổ Lai, người Nhật gọi là Huyên Viên học phái "đều thừa tiếp phái
Vĩnh Gia mà phản đối Chu Tử" (31).
Dưới
thời Minh thuộc (1414 – 1427), Lý học được quảng bá ở Việt Nam ; các
sách như Ngũ kinh, Tứ thư, Tính lý đại toàn được dùng làm sách học tại
các cơ sở đào tạo do chính quyền đô hộ bảo trợ (32).
Riêng
trong vùng kháng chiến chống quân Minh, ta thấy dưới sự lãnh đạo của Lê
Lợi, nghĩa quân Lam Sơn mà kiến trúc sư về mặt tư tưởng là Nguyễn Trãi
đã ra sức khai thác một số mặt nào đó của đạo Nho để phục vụ cho cuộc
đấu tranh giải phóng đất nước. Đó là tư tưởng "nhân nghĩa" :
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước nhằm trừ bạo ...
... Dùng đại nghĩa thắng hung tàn,
Dùng chí nhân thay cường bạo ...
(Bình Ngô đại cáo) (33)
Đó
là tinh thần vượt khổ, vượt khó, "lao tâm khổ tứ" để theo đuổi một sự
nghiệp lớn lao : "Hồi bấy giờ, trẫm (Lê Lợi – TN) nương thân đất khách,
vợ con thân thích mỗi kẻ một nơi. Ngày không câu nệ hai bữa, áo không
phân biệt đông hè. Khi gặp nạn ở núi Chí Linh,
lương cạn quân chuồn, trời bắt ta phải "lao tâm khổ tứ" kể cũng đã lắm.
Ta thường dụ bảo tướng sĩ rằng : "Nhiều hoạn nạn mới giữ được nước, lắm
lo âu mới nảy ra tài", cảnh khốn quẫn hôm nay là trời thử thách ta đó.
Các khanh nên giữ lòng xưa, đừng vì thế này mà sinh nản" ... (34)
Đó là sự nhận thức về vai trò và sức mạnh của "dân" mà người quản lý đất nước đừng bao giờ xem nhẹ :
Lật thuyền mới rõ dân như nước
(Ức Trai thi tập. Quan hải) (35)
Đó là sứ mệnh thiêng liêng mà lịch sử (Trời) đang đặt lên vai quân khởi nghĩa :
Thay trời hành hoá,
Hoàng thượng truyền rằng ...
(Bình Ngô đại cáo)
"Mậu Thân, Thuận Thiên năm thứ 1 (1428) ... Mùa xuân, tháng giêng, quân Minh đã về nước, vua bèn thâu tóm cả nước, lấy năm này làm năm đại định" (36).
"Lời
bàn : Từ khi trời đất định vị, thì Nam, Bắc chia trị rạch ròi ( ... )
May mà lòng trời còn đó, thánh chúa ra đời, chinh phục bằng nghĩa, đánh
dẹp bằng nhân, non sông mới được đổi mới, nhật nguyệt mới lại sáng tươi
..." (37).
Có
thể thấy Nho học Việt Nam giai đoạn Lý Trần, như vừa trình bày, chưa
hẳn là Tống Nho, mà là một thứ chiết trung, dao động giữa Nho học nguyên
thuỷ Khổng – Mạnh – Tuân và Nho học thần học hoá thời Lưỡng Hán. Về vị
trí, Nho giáo Việt Nam lúc này vẫn còn đứng sau Phật giáo.
2. Nho học từ Lê sơ đến cuối Nguyễn.
Sang
triều Lê, do nhu cầu xây dựng một nhà nước phong kiến trung ương tập
quyền, Nho giáo được triều đình trọng dụng. Theo Nguyễn Trãi, đây là một
lựa chọn đúng hướng:
Chớ còn chẳng chẳng, chớ quyền quyền,
Lòng hãy cho bền đạo Khổng môn ...
(Quốc âm thi tập. Tự thán 41)
Và :
Mấy kẻ tư văn sinh đất Việt,
Đạo này nối nắm để cho dài ...
(Quốc âm thi tập. Tự thán 22)
Đặc biệt với Lê Thánh Tông, một ông vua :
Trống dời canh còn đọc sách,
Chiêng xế bóng chửa thôi chầu ...
(Thơ Nôm : Tự thuật)
thì
chính học thuyết Nho giáo đã cung cấp cho ông nhiều sách lược quan
trọng để làm cho dân yên nước trị, và trên thực tế, ông cũng đã thực
hiện được điều đó như lời nhận xét của Phan Huy Chú : "Về trị nước thì
vua tôn trọng Nho thuật, cất nhắc anh tài, sáng lập chế độ, mở rộng bờ
cõi, văn võ tài lược hơn cả các đời" (38).
Riêng phần mình, Lê Thánh Tông nuôi chí trở thành một ông vua sáng
suốt" (minh quân) và do vậy, ông cần có nhiều "bề tôi giỏi" (lương tể),
những nho sĩ chân chính, khả dĩ giúp ông thực hiện điều mơ ước ấy, như
ông từng kỳ vọng qua bài thơ Thực học:
Tâm chính gia tề nhất quán chi,
Thù phi trùng triện đấu thần kỳ.
Vị nhân vị kỷ nghi tiên biện,
Hy thánh hy hiền vụ trí tri.
Khổng Mạnh văn chương thuỳ hậu thế,
Y Chu sự nghiệp tá minh thì.
Sĩ phong đôn thượng chân nho xuất,
Dực ngã hy triều đại hữu vi.
(Lập tâm ngay chính, giữ nếp nhà êm đẹp, theo đạo ấy một cách nhất quán,
Khác hẳn hạng chỉ biết đẽo gọt cho văn vẻ, tranh nhau sự kỳ lạ.
Vì người hay vì mình là điều cần phải phân biệt trước tiên,
Mong trở thành bậc thánh hay bậc hiền, cốt ở sự hiểu biết thấu đáo.
Vẻ sáng đẹp của Khổng Tử, Mạnh Tử còn toả mãi tới đời sau,
Sự nghiệp của Y Doãn, Chu Công giúp rập đời vua sáng.
Phong cách kẻ sĩ đầy đặn thì chân nho xuất hiện,
Giữ cho triều đại sáng của ta nên sự nghiệp lớn.)
Còn
đối với Phật giáo, Đạo giáo ... thì Lê Thánh Tông không khuyến khích
phát triển. Năm 1461, sau khi lên ngôi, nhà vua liền ra sắc chỉ cho các
xứ, phủ, lộ như sau : "Chùa quán nào không có ngạch cũ thì không được tự
tiện làm mới" (39). Năm 1463, ông lại
tiếp tục có sắc chỉ : "Những người bói toán, Đạo, Thích ở trong nước từ
nay về sau không được trò chuyện với người trong cung và hậu đình" (40).
Có
thể thấy từ nửa sau thế kỷ XV, dưới sự bảo trợ của triều đình, hệ tư
tưởng Nho giáo ngày càng phát huy tác dụng và trở thành hệ tư tưởng chủ
đạo trong xã hội. Phật giáo, Đạo giáo ... cũng từ đó bị đẩy xuống hàng
thứ yếu. Và tình hình này sẽ kéo dài mãi ở Việt Nam cho đến tận cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Xét về tính chất, thì Nho học Việt Nam từ Lê sơ cho đến cuối Nguyễn chủ yếu vẫn là "Lý học" đời Tống.
Nguyễn
Trãi từng ca ngợi Chu Liêm Khê theo học đạo ở Thọ Nham Thiền sư, nhưng
về sau đã phát minh ra "Lý học", một triết thuyết cao hơn thầy, đúng như
lời Tuân Tử từng nói : màu xanh có nguồn gốc từ màu chàm vậy mà xanh
hơn màu chàm :
Giòng nước Liêm Khê lục nữa lam
(Quốc âm thi tập. Tự thán 97)
Lê Thánh Tông trong Thập giới cô hồn quốc ngữ văn, phần Giới Nho sĩ, cũng có những câu đề cao Chu Hy bên cạnh Khổng Tử :
Liễm thói Nho phong,
Mần nghề cử tử.
Cơm áo nhờ ơn cha mẹ,
Đêm ngày đọc sách thánh hiền.
( ... )
Lặn lội rừng Nho bể học,
Ngâm nga ý Khổng lòng Chu.
Công đăng hoả đã dày,
Tài văn chương càng nhọn ...
Tiếp
sau Nguyễn Trãi và Lê Thánh Tông đời Lê sơ, có Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 –
1585) đời Mạc, Lê Quý Đôn (1726 – 1784) đời Lê trung hưng, Nguyễn Thiếp
(1723 – 1804) đời Tây Sơn, v.v. đều là những học giả đặc biệt tâm đắc
về Tống học. Nguyễn Bỉnh Khiêm từng được người Trung Quốc tôn xưng là
"nhà Lý học của An Nam". Lê Quý Đôn đã dành nhiều giấy mực để thuyết
minh về "lý, khí". Nguyễn Thiếp trong Hạnh Am di văn có đoạn viết : "Cái đạo học của cửa thánh thì đã có sách của Liêm Khê, Minh Đạo, Y Xuyên, Hoành Cừ, Khang Tiết và Chu Văn Công, bác văn ước lễ, không thiếu điều gì.
Người
sinh ra sau những bậc ấy, chỉ lo cái đạo không đem ra thực hiện, chứ
không lo cái đạo không sáng tỏ. Kẻ có chí nên nhớ lấy mà thể nhận cái
thực chất của đạo là đủ, cần gì phải nói nhiều". Với Hạnh Am (biệt hiệu
của Nguyễn Thiếp) Khổng giáo phát triển đến Tống Nho là tột đỉnh, nên
xem "Lý học" Trình Chu như tinh hoa của Nho học, nhìn trên tổng thể :
Kinh tàn, thánh viễn, học mông mông,
Thiên cổ Trình Chu đắc chính tông ...
(Sách thì rách nát, thánh thì xa vời, đạo học mông lung,
Nhưng qua tác phẩm của Trình Chu, đạo học chính thống vẫn được truyền lưu mãi mãi)
(Thơ làm nhân đọc sách Tính lý đại toàn)
3. Nho học Việt Nam thời văn hoá Tây sang.
Các
chữ "thời văn hoá Tây sang" ở đây được dùng để chỉ giai đoạn lịch sử từ
đầu thế kỷ XX đến Cách mạng thánh Tám 1945, những năm tháng diễn ra
cuộc đụng độ giữa "tân học", đại diện cho nền văn hoá đến từ phương Tây
và "cựu học", đại diện cho nền văn hoá phương Đông truyền thống trên xứ
sở người Việt.
Giai đoạn này, liên quan tới Nho học, có mấy sự kiện đáng chú ý sau đây :
a. Các viên Toàn quyền Pháp buổi đầu với chủ trương "duy trì cựu học".
Năm
1897, P. Doumer sang Đông Dương làm Tổng đốc toàn quyền. Theo ông, cái
mà Việt Nam cần lúc này về mặt văn hoá giáo dục, vẫn là đạo Khổng :
"Những nguyên tắc làm cho gia đình vững chắc, cha mẹ được tôn kính,
chính quyền được tuân thủ, đều rút từ các sách Hán học. Bắt đầu tập đọc
những chữ đầu tiên là do học những nguyên tắc rường cột của luân lý đạo
Khổng, họ khắc sâu vào lòng những nguyên tắc sẽ hướng dẫn họ suốt cả
cuộc đời. Chính các trường làng đã cung cấp cho họ nền giáo dục đó" (41).
Năm
1902, Doumer về nước. Người kế nhiệm là Beau, kể cả một số viên Toàn
quyền sau đó nữa, đều giữ nguyên chính sách giáo dục "cổ suý cựu học"
của Doumer. Tứ thư, Ngũ kinh ... vẫn được tiếp tục giảng dạy ở
các trường miền quê ; thi Hương, thi Hội vẫn được tổ chức đều đều cho
đến giữa Thế chiến lần thứ nhất. Mãi tới năm 1915, mới bãi bỏ thi Hương ở
Bắc Kỳ. Năm 1918, bãi bỏ khoa cử ở Trung Kỳ. Và năm 1919, khoa thi Hội
cuối cùng được tổ chức tại Huế, đánh một dấu chấm hết về mặt quan phương
cho lịch sử khoa cử cùng Nho học ở Việt Nam.
b. Phong trào Đông Kinh nghĩa thục với đường hướng văn hoá giáo dục "bốn chống, năm xây"(42).
Đông Kinh nghĩa thục là trường học "vì việc nghĩa", do một số nhà nho yêu nước và tiến bộ Việt Nam tổ chức tại Hà Nội (Đông Kinh) và hoạt động từ tháng 3 đến tháng 12 năm 1907. Nội dung của "việc nghĩa" gồm :
– Bồi dưỡng, nâng cao lòng yêu nước và chí tiến thủ cho quần chúng nhân dân.
– Truyền bá tư tưởng, học thuật mới và xây dựng nếp sống văn minh, tiến bộ.
– Phối hợp hành động và ủng hộ các phong trào dân tộc, dân chủ ở trong nước cũng như ở nước ngoài.
Để đạt được các mục tiêu trên, cần thực hiện "bốn chống, năm xây".
"Bốn chống" là nhằm vào "cựu học", cũng tức là Nho học và những gì liên quan với nó. Cụ thể là:
– Chống nền cựu học : "Nước Nam ta bây giờ dốt tệ lắm, mà cũng vì dốt nên phải làm như trâu, như bò ..." (43).
Vậy để khỏi "dốt", trước hết phải chống lại cái nguyên nhân làm cho
mình "dốt", đó là nền cựu học, "kẻ thù của sự tiến bộ, của nền văn
minh".
– Chống bọn hủ nho :
"Tai hại thay hủ thư, đục nát bét các bố !
Đau đớn thay hủ nho, làm các bố lầm lỡ !
Tầm mắt không trông khỏi làng, đã chê cười Khang Lương,
Bước chân không ra khỏi ngõ, đã coi hẹp vũ trụ !" (44).
– Chống chữ Hán
: "Chữ Hán quả là một cái hàng rào hiểm chắn ngang đường văn minh, làm
cho kẻ đi học mỏi lưng, tốn biết bao cơm gạo mới dùng được chữ. Khi dùng
được chữ thì trán đã nhăn, lưng đã còng, vì nỗi dùi mài một đời, học
các điều cao xa quá. Chữ thảm chữ hại làm cho ai mó đến cũng phải quên
cả việc thường đời nay để học việc đời xưa ; đời xưa thực chết ròi, thực
xa rồi " (45).
– Chống khoa cử : "Anh còn muốn cái Cử nhân ư ? Này, tôi bán cho anh một xu thôi!" (46).
Đi
đôi với "bốn chống", các nhà sáng lập Đông Kinh nghĩa thục còn chủ
trương "năm xây". Vì nội dung phần này không trực tiếp liên quan tới Nho
học nên ở đây không đi sâu (47).
Về phong trào Đông Kinh nghĩa thục, có thể xem thêm cuốn chuyên khảo Đông Kinh nghĩa thục và phong trào cải cách văn hoá đầu thế kỷ XX của Chương Thâu, Nxb. Hà Nội, 1982.
c. Phan Bội Châu với tác phẩm "Khổng học đăng".
Khổng học đăng (Ngọn đèn Khổng học) (48) của Phan Bội Châu (1867 – 1940) được biên soạn tại Huế (Bến Ngự) trong khoảng thời gian từ 1929 (năm tác giả viết bài Phàm lệ) đến năm 1935 (năm hoàn thành phần cuối cùng của bộ sách chép tay).
Tác phẩm gồm 3 thiên. Thiên thượng (18 chương) dành cho việc trích dịch và diễn giải những câu, chữ, ý ... quan trọng trong sách Luận ngữ. Thiên trung dùng để giới thiệu sách Đại học (10 chương) và sách Trung dung (1 chương gồm 12 tiết). Thiên hạ
(8 chương) là phần trình bày về các phái Nho học Trung Quốc từ Mạnh Tử,
Tuân Tử qua Lưỡng Hán, Lục triều, Tống, Nguyên, Minh, Thanh cho đến
Khổng học tân phái (phái Khổng học mới) ở những thập niên cuối Thanh đầu
Trung Hoa dân quốc.
Theo
lời tác giả thì mục đích biên soạn sách này là nhằm "phù trì nhân đạo",
"duy trì nhân tâm", "muốn cho người ta biết học cũ vẫn không phải trần
hủ, còn học mới vẫn không phải phù hoa. Nếu học cho tinh thần, thời ví
như làm nhà : học cũ là nền tảng, mà học mới là tài liệu (nguyên vật
liệu – TN) ; hai bên vẫn có thể giùm cho nhau mà làm nền nhà ; và cần
thứ nhất là chẳng bao giờ không nền tảng mà dựng được nhà. Tác giả viết
bản sách này là muốn điều hoà học cũ với học mới ; hai bên tương thành
cùng nhau mà quyết không tương phản" (Phàm lệ).
Danh
từ "học cũ" mà Phan Bội Châu dùng ở đây được hiểu như là "chân triết lý
của Á châu từ thuở xưa", còn danh từ "học mới" thì để chỉ "khoa học tối
tân thiệt có ích với nhân sinh của thế giới bây giờ" (Phàm lệ).
Điều tác giả trông mong ở người đọc là chí tiến thủ, mà Khổng học đăng
cũng như các tư tưởng mới đến từ phương Tây chính là chất xúc tác : "Hễ
ai đọc bản sách này, trước phải lập định một cái chí khí tự nhiên rằng :
"Ta là Khổng Tử, ta là Mạnh Tử, ta là Bá Lạp Đồ (Platon), ta là Khang
Đức (Emmanuel Kant), chẳng qua đời tuy có xưa nay, đất tuy có đông tây,
mà tâm lý in nhau ; thánh hiền tức là ta, ta tức là thánh hiền, ta chỉ
là người hậu tiến của cổ nhân mà thôi". Có chí khí ấy thời đọc quyển
sách này mới thích" (Phàm lệ).
d. Trần Trọng Kim với tác phẩm "Nho giáo".
Nho giáo (49) của Trần Trọng Kim (1882 – 1953) gồm 2 quyển, lần lượt đến với độc giả vào các năm 1930 (Q. 1) và 1933 (Q. 2).
Sách có cả thảy 20 thiên. Từ Thiên I đến Thiên VII nói về thời đại Khổng Tử cùng học thuyết của ông. Từ Thiên VIII đến Thiên XIX, giới thiệu các phái Nho học cũng như những nhà Nho nổi tiếng xuất hiện sau Khổng Tử : phái Mạnh Tử ; phái Tuân Tử ; Nho giáo đời Lưỡng Hán (Đổng Trọng Thư, Dương Hùng, Vương Sung) ; Nho giáo đời Tam quốc và Lục triều ; Nho giáo đời Tuỳ và đời Đường (Vương Thông, Hàn Dũ) ; Lý học đời Tống (Tượng số học của Thiệu Ung ; Đạo học của Chu Đôn Di, Trương Tái, Trình Hiệu, Trình Di, Chu Hy ; Tâm học
của Lục Cửu Uyên) ; Nho giáo đời Nguyên (Triệu Phục, Hứa Hành, Hứa
Khiêm) ; Nho giáo đời Minh (phái Hà Đông, phái Sùng Nhân, phái Bạch Sa,
phái Diêu Giang, Vương Dương Minh, phái Đông Lâm, phái Thủ Thiện, Cái vạ
đảng phái, Ảnh hưởng Tây học) ; Nho giáo đời Thanh (phái Hán học, phái
Kinh học, phái Tống học, phái Tân học).
Thiên XX,
phần cuối cùng của bộ sách, dành để nói về sự mở mang Nho học và nhân
vật Nho học ở Việt Nam. Với thiên này, tác giả chỉ cung cấp cho độc giả
một cái nhìn tổng quan mà không đi sâu phân tích.
Mục tiêu của bộ sách, như tác giả nói, là cố gắng "vẽ lấy cái bản đồ của Nho giáo" (Tựa 1), "vẽ cho đúng cái chân tướng của Nho giáo trải qua các thời đại" (Tựa 2), với hy vọng mọi người sẽ dựa vào đây mà "dung hoà cái mới (chỉ tân học – TN) với cái cũ (chỉ cựu học
– TN), để "gây ra thành cái tinh thần mới, có thể thích hợp với hoàn
cảnh của mình, thích hợp với trình độ và tâm tính của mình" (Tựa 1).
Tác
giả bộ sách không đồng tình với thái độ "có mới nới cũ", chưa gì đã
muốn vứt bỏ ngay tinh thần Nho giáo truyền thống "đã có rễ ăn sâu xa vào
tuỷ não của người mình" để đón lấy khoa học tiên tiến phương Tây mới du
nhập. Làm như thế, theo tác giả, "vị tất đã có lợi cho tương lai của xã
hội mình". Ông đề nghị nên đem Nho giáo mà điều hoà với khoa học ngày
nay, để "cái đạo của thánh hiền cũng có thể sáng rõ ra được, và nhân
loại không đến nỗi lờ mờ như người đi đêm vậy" (Lời phát đoan).
Trần
Trọng Kim mơ tưởng tới một ngày cuộc va chạm dữ dội giữa văn hoá Đông –
Tây sẽ được kết thúc bằng sự dung hợp những gì là ưu trội của cả hai
nền cựu học và tân học. Lúc bấy giờ thì, theo tác giả, giống như sau cơn
sóng gió, "cảnh thiên nhiên lại xuất hiện, tươi tốt, đẹp đẽ hơn trước" (50).
Những
sự kiện trên đây cho ta một cảm nhận : Nho học Việt Nam đã thực sự trải
qua một cuộc khảo nghiệm gay go kể từ những thập niên đầu thế kỷ trước,
khi văn hoá Châu Âu tràn tới. Cuộc xúc tiếp văn hoá Đông – Tây hồi này
đã chia rẽ đám nhà Nho Việt Nam thành hai phái : phái Nho gia yêu nước
cấp tiến mà Đông Kinh nghĩa thục có thể coi là đại diện, và phái Nho gia
mang tinh thần dân tộc với chủ trương dung hợp văn hoá Đông – Tây để
đưa đất nước tiến lên mà Phân Bội Châu, Trần Trọng Kim là lực lượng đi
đầu.
Nếu cần nói thêm điều gì, thì đó là những trăn trở của nhà chí sĩ Mính Viên Huỳnh Thúc Kháng. Với bài Lối học khoa cử và lối học Tống Nho có phải là đạo Khổng Mạnh không đăng trên báo Tiếng dân (51),
ông có đoạn viết : "Chúng ta ngày nay đã trông thấy điều hủ của mình và
điều hay của người, ai là người tự xưng học thức, lưu tâm đến học giới
sau này, một mặt thì đem cái học cũ của ta mà đãi bòn lựa học, bỏ cái hủ
xấu mà lặt điều tinh tuý ; một mặt thì tựu trung (từ trong – TN) học
thuyết mới mà lựa chọn điều hay điều tốt, thích hợp với tình thế, có thể
bổ chỗ khuyết điểm cho học giới ta, lần lần du nhập cho người mình.
Phải biết, đất có đào hết cỏ thì trồng được lúa tốt, ao có dội sách bùn
thì sau mới chứa được nước trong. Cái độc Tống Nho cùng khoa cử mà còn
đeo ở cái não của người mình thì bề ngoài dầu Âu hoá, dầu Tây học rầm rộ
thế nào, mà bề trong không khỏi phạm vào câu theo cụ Tây Hồ nói trên :
Cha đã nghèo mà con lại hoang, thì trừ bọn "bợm điếm lo chợ cháy" ra,
không còn mong có công việc gì là thực tế" (52).
Có
thể xem cách ứng xử của Mính Viên đối với vấn đề "cựu học" và "tân học"
thể hiện trong đoạn văn vừa trích như một "gạch nối", nếu không muốn
nói là một "điều chỉnh cần thiết", nhằm dung hoà tư tưởng hai phái Nho
học nước ta đầu thế kỷ XX.
x
x x
Các
loại Nho học Việt Nam trên đây tuy phần lớn tiếp thu từ Trung Quốc,
nhưng đều trải qua sự chọn lọc, châm chước, sửa đổi sao cho phù hợp với
hoàn cảnh xã hội Việt Nam. Xét cho cùng, thì nó chính là sự kết hợp giữa
trí tuệ Việt Nam và thực tế đất nước qua các thời kỳ lịch sử.
Chú thích:
(1)
Ở đây có một số cách gọi cần minh định : Nho gia, Nho giáo, Nho học.
"Nho gia" chỉ một môn phái học thuật dấy lên ở Trung Quốc vào thời Tiên
Tần (Xuân thu – Chiến quốc), do Khổng Tử đại diện. Môn phái này về sau
đã phát triển và tư tưởng học thuật của họ đã lan truyền tới nhiều nước
như Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản ... Từ thời Nam Bắc triều (cuối thế
kỷ IV đến thế kỷ VI) trở đi, "Nho gia" có lúc cũng được gọi là "Nho
giáo" để đối sánh với Đạo giáo,Phật giáo ... Còn "Nho học" thì chủ yếu
dùng để chỉ học thuyết Nho gia. "Nho học Việt Nam" là thứ Nho học do
người Việt Nam cải biên để sử dụng.
(2) Trong Lời nói đầu cuốn Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam
(Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội – 1998) có đoạn viết : "Trên thực tế,
các nhà nghiên cứu Việt Nam chưa đề cập nhiều vấn đề lịch sử phát triển
của Nho giáo ở Việt Nam và đặc điểm Nho giáo Việt Nam giống và khác với
Trung Quốc ở điểm nào" (Sđd., tr. 11). Chúng tôi chia sẻ nhận định vừa
nêu của Gs. Phan Đại Doãn, cũng là người Chủ biên cuốn sách.
(3) Xem Lâu Vũ Liệt : Nho Phật Đạo trong nền văn hoá Trung Quốc (In ở phần đầu bộ Từ điển Nho Phật Đạo,
do Lao Tử – Thịnh Lê, người Trung Quốc Chủ biên. Trương Đình Nguyên,
Mai Xuân Hải v.v. biên dịch ; Mai Xuân Hải biên tập lại. Nxb. Văn học,
Hà Nội – 2001, tr. 7 – 25). Hoặc Chu Nghĩa Lộc : Chư tử bách gia. Chương I, Khổng Mạnh chi đạo. Đại học Đồng Tế xuất bản, 2002, tr. 11 – 51 ...
(4)
Vu : người làm đồng cốt. Sử : người trông coi cúng tế và ghi chép công
việc. Chúc : người giao tiếp với thần linh khi hành lễ. Bốc : chuyên
việc bói toán để biết sự lành, dữ ...
(5)
Trật tự một số chữ trong câu này trước đây ghi còn nhầm lẫn, do chưa
chú ý tới hiện tượng "thoát giản" trong sách cổ. Các chữ "bất hoạn bần"
(nói về của cải) ở vế dưới và "bất hoạn quả" (nói về dân số) ở vế trên
phải đổi chỗ cho nhau thì mới đúng. Nay chữa lại. Xem thêm Trần Trọng
Kim : Nho giáo. Nxb. Văn học, Hà Nội – 2003, phần nói về Quan niệm về chính trị của Đổng Trọng Thư, tr. 338.
(6) Theo Chư Tử bách gia, Sđd., tr. 23 – 24.
(7) Xem Trần Nghĩa : Thử bàn về thời điểm du nhập cùng tính chất, vai trò của Nho học Việt Nam thời Bắc thuộc. Tạp chí Hán Nôm, Số 1 – 2005, tr. 11 – 17.
(8) Hậu Hán thư, Q. 116. Nam Man truyện.
(9) Lê Trắc : An Nam chí lược. Bd. Uỷ ban phiên dịch Sử liệu Việt Nam (Viện Đại học Huế). Huế, 1961, tr. 139.
(10) Tam quốc chí, Q. 49. Ngô chí, Sĩ Nhiếp truyện.
(11)
Thuộc hàng ngũ Nho gia, có Hoàn Việp, Hứa Tĩnh, Lưu Hy, Hứa Từ, Cố Đàm,
Trình Bính, Tiết Tổng, Dữu Đạo Mẫn ... trong đó, đáng chú ý nhất là Lưu
Hy và Trình Bính. Lưu Hy tự Thành Quốc, người Bắc Hải, tị nạn sang Giao
Châu vào đời Kiến An (196 – 219). Theo Bách Việt tiên hiền chí,
ông là người học rộng, biết nhiều, tiếng tăm lừng lẫy, vời làm quan
không chịu ra". Trên đất Giao Châu, ông đã đào tạo được khá nhiều học
trò giỏi. Còn Trình Bính thì, theo Tam quốc chí, "Học Trịnh
Huyền (một chuyên gia nổi tiếng về kinh học, huấn hỗ học đời Đông Hán,
có nhiều ảnh hưởng đối với đương thời cũng như đời sau. Ông sinh năm
127, mất năm 200 – TN), sau đó lánh loạn sang Giao Châu, cùng Lưu Hy
khảo luận nhiều vấn đề học thuật quan trọng, do vậy mà thông hiểu khắp Ngũ kinh (gồm Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân thu. Cách gọi "Ngũ kinh" đến đời Hán Vũ Đế (141 TCN – 87 TCN) mới bắt đầu có – TN), được Sĩ Nhiếp cử làm Trưởng lại".
(12) Xem Trần Nghĩa : Sưu tầm và khảo luận tác phẩm chữ Hán của người Việt Nam trước thế kỷ X. Nxb. Thế giới, Hà Nội – 2000, tr. 379.
(13) Đại Việt sử ký toàn thư, Tập I, Bd. Ngô Đức Thọ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1983, tr. 100.
(14) Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd., tr. 100.
(15) Sưu tầm và khảo luận tác phẩm chữ Hán của người Việt Nam trước thế kỷ X, Sđd., tr. 205 – 261.
(16) Sđd., tr. 213 – 214.
(17) Sđd., tr. 223.
(18) Sđd., tr. 230.
(19) Sđd., tr. 239.
(20) Sđd., tr. 251.
(21) Sđd., tr. 239.
(22) Sđd., tr. 352 – 362.
(23) Đại Việt sử ký toàn thư, Tập I, Sđd., tr. 255.
(24) Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Sđd., tr. 138.
(25) Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Sđd., tr. 151.
(26) Thơ văn Lý Trần, Tập II, Q. Thượng, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989, tr. 746 – 749.
(27) Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Sđd., tr. 153 ; Thơ văn Lý Trần, Tập III, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, tr. 144 – 145.
(28) Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Sđd., tr.114.
(29) Sđd., tr. 184 – 185.
(30) Sđd., tr. 190.
(31) Phan Bội Châu toàn tập, Tập 10. Khổng học đăng, cuốn 2. Thủ bút của cụ Sào Nam năm 1935. Chương Thâu sưu tầm và biên soạn. Nxb. Thuận Hoá, 1990, tr. 358.
(32) Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Sđd., tr. 243.
(33) Trùng san Lam Sơn thực lục, Trần Nghĩa dịch, chú thích và giới thiệu, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992, tr. 56 và 59.
(34) Trùng san Lam Sơn thực lục, Sđd., tr. 64. Xem cả chú thích "2" ở trang này để thấy ảnh hưởng của tư tưởng Mạnh Tử.
(35) Nguyễn Trãi toàn tập. Ức Trai thi tập, 13. Quan hải.
Đào Duy Anh dịch và giới thiệu. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1969, tr.
253 – 254. Câu thơ này có nguồn gốc từ câu "Quân giả thuỷ giã, thứ nhân
giả chu giã ..." của Tuân Tử.
(36), (37) Đại Việt sử ký toàn thư,
Tập II, Sđd., tr. 291. Các cụm từ như "Đại thiên hành hoá", "Thuận
Thiên", "lòng trời còn đó, thánh chúa ra đời" vừa dẫn đều có nguồn gốc
từ thuyết "Vương quyền thần thụ" (Quyền được làm vua là do trời trao
cho) của Đổng Trọng Thư. Ở Việt Nam, tư tưởng "Vương quyền thần thụ" sau
khi du nhập, đã tồn tại trong suốt thời kỳ phong kiến (Về điểm này, có
thể xem các sách như : Ất Mùi Tiến sĩ Nguyễn tiên sinh soạn A. 459, tờ 10, có cụm từ "Thuận thiên thừa vận, Hoàng Đế nhược viết" ; Đại Việt sử ký cải lương A. 1146/1-2, tờ 3a, có cụm từ "Đại thiên hành hoá" ; Thực thụ Đông các cáo văn tịnh đối liên VHv. 669, tờ 1a, bài Thực thụ Đông các cáo văn
mở đầu bằng câu "Thừa thiên hưng vận, Hoàng Đế chế viết" v.v. Nguyễn
Danh Phương khi nổi lên chống chúa Trịnh, cũng từng tự xưng là "Thuận
thiên khải vận đại nhân" (Đại Việt sử lược của Trần
Trọng Kim, Nxb. Tân Việt in lần thứ 5, 1954, tr. 321). Lý Thái Tổ khi
lên ngôi, cũng lấy niên hiệu là "Thuận Thiên" với ý nghĩa như trên
v.v.).
(38) Theo Lịch triều hiến chương loại chí. Nhân vật chí.
(39), (40) Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Sđd., tr. 397 – 403.
(41) Trần Văn Giàu : Lịch sử cận đại Việt Nam, Tập III, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1964, tr. 41.
(42) "Bốn chống, năm xây" : chữ do chúng tôi tạm đặt.
(43) Đăng cổ tùng báo, số ra ngày 27 – 6 – 1907.
(44) Trích từ Cáo hủ lậu văn (bản dịch).
(45) Vũ Bội Liêu : Bài phi lộ. Xem Đăng cổ tùng báo, số ra ngày 28 – 3 – 1907.
(46) Dương Bá Trạc.
(47)
"Năm xây" gồm : học chữ quốc ngữ ; học tập theo phương pháp mới ; đề
cao nhân bản, phát huy óc sáng tạo ; đề cao dân tộc và lòng yêu nước ;
giáo dục sơ đẳng và giáo dục chuyên môn.
(48) Khổng học đăng
: sách được Anh Minh Ngô Thành Nhân lần đầu tiên xuất bản tại Huế năm
1957. Năm 1973, Nhà sách Khai Trí tái bản tại Sài Gòn. Năm 1990, Nxb.
Thuận Hoá - Huế đã đưa Khổng học đăng vào Phan Bội Châu toàn tập (Tập 9 và Tập 10), do Chương Thâu sưu tầm và biên soạn.
(49) Nho giáo, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2003.
(50) Nho giáo, Sđd., tr. 646.
(50) Báo Tiếng dân ra đời từ năm 1927, và kết thúc vào năm 1943.
(51) Trích từ Phan Bội Châu toàn tập, Tập 10, phần Phụ lục, Sđd., tr. 434. Nguyên văn hai câu thơ của Phan Châu Trinh (Tây Hồ) mà Mính Viên nhắc tới ở đây là :
Bọn điếm lăng xăng lo chợ cháy,
Con hoang lơ lửng khóc cha nghèo.
http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=681&Catid=6